Khuddaka Nikaya "The Short Passages" Hòa Thượng Thích Minh Châu Dịch Việt TẬP III 3.2 TRƯỞNG LÃO NI KỆ PHẨM I TẬP MỘT KỆ
1. Hãy ngủ trong an lạc
Hỡi nàng thân đẫy đà, Ðắp phủ trong tấm y, Chính mình tự làm lấy, Lòng tham, nàng lắng dịu, Như ghè khô trong lò!
2. Hỡi này, giải thoát Ni
Hãy giải thoát các ách, Như mặt trăng thoát khỏi, Miệng hàm của Ràhu, Với tâm tư giải thoát, Khỏi nợ nần trói buộc, Hãy thọ hưởng món ăn, Do khất thực đem lại.
3. Hỡi này, thành Mãn ni,
Hãy tràn đầy Chánh pháp, Như mặt trăng tròn đầy, Trong ngày rằm trăng tròn, Hãy tràn đầy trí tuệ, Phá tan khối si ám.
4. Tissà hãy học tập,
Học trong những học pháp, Chớ để cho các ách, Vượt khỏi chi phối nàng. Hãy sống không liên hệ, Mọi ách không trói buộc, Sống giữa thế giới này, Không có các lậu hoặc.
5. Tissà, hãy cột tâm
Tập trung trên các pháp, Chớ để từng sát-na Uổng phí vượt khỏi nàng! Những sát-na đã qua Họ sầu muộn, đau khổ, Khi họ bị rơi vào Trong cảnh giới địa ngục.
6. Dhìra, hãy cảm xúc,
Những cảm chứng đoạn diệt, Tịnh chỉ các vọng tưởng, Là chân chánh an lạc, Hãy thuận hướng Niết-bàn, Ách an ổn, vô thường.
7. Dhìra, hãy kiên trì,
Nắm giữ các thiện pháp, Hỡi này Tỷ-kheo-ni, Các căn được tu tập, Hãy mang cái thân này, Là cái thân cuối cùng, Sau khi đã chiến thắng, Ác ma nữ quân lực, Sau khi đã chiến thắng, Ác ma với quân lực.
8. Hỡi này Mittà bạn!
Với lòng tin xuất gia, Hãy tu tập rèn luyện, Hân hoan trong bạn lành, Hãy tu tập rèn luyện, Trong các pháp hiếu thiện, Cố gắng đạt cho được, An ổn khỏi ách nạn.
9. Hỡi Bhàdha hiền thiện,
Với lòng tin xuất gia, Hãy sống vui hoan hỷ, Trong các pháp hiền thiện, Hãy tu tập rèn luyện, Trong các pháp chí thiện, Cố gắng đạt cho được, An ổn khỏi ách nạn.
10. Hỡi Upasanà
Hãy vượt dòng nước mạnh, Dòng nước khó vượt qua, Bị thần chết chi phối, Hãy mang cái thân này, Là cái thân cuối cùng, Sau khi đã chiến thắng, Ác ma với quân lực.
11. Lành thay giải thoát Ni,
Ta thật khéo giải thoát, Giải thoát ra khỏi được, Ba vật còm và cong, Thoát cối xay, cái chày, Thoát ông chồng lưng còm, Hỡi này giải thoát Ni! Ta thoát được sống chết, Những gì dẫn tái sanh, Ðược nhổ lên tận gốc.
12. Trong ai, lòng ước muốn,
Ðạt được quả vô sanh, Ðược sanh khởi tỏa rộng, Ðầy tràn cả tâm ý, Tâm không bị trói buộc, Trong các dục chi phối, Vị ấy được tên gọi Là bậc vào dòng trên.
13. Hãy làm, hãy thực hành
Ðúng theo lời Phật dạy. Và sau khi làm xong, Không có lòng ăn năn, Hãy gấp rửa chân sạch, Và ngồi xuống một bên.
14. Sau khi thấy các giới,
Với cái nhìn đau khổ, Chớ có đi trở lại, Vào con đường tái sanh, Hãy từ bỏ, xả ly Lòng dục trong sanh hữu, Sống đời sống hành trì, Ta mát lạnh tịch tịnh.
15. Ta đã chế ngự được,
Thân miệng và tâm tư, Ta chinh phục khát ái, Cho đến tận gốc rễ, Ta sống được mát lạnh, Trong tịch tịnh, an lặng.
16. Hỡi này, lão Ni kia,
Hãy an lạc nằm nghỉ, Ðắp phủ trong tấm y, Chính tự mình làm lấy, Lòng tham người an tịnh, Người mát lạnh tịch tịnh.
17. Sau khi khất thực xong,
Yếu sức, chống trên gậy, Với chân tay run rẩy, Ta ngã trên mặt đất, Thấy nguy hiểm của thân, Tâm ta được giải thoát.
18. Bỏ gia đình, xuất gia,
Ta từ bỏ con cái, Từ bỏ gia súc quý, Từ bỏ tham và sân, Còn đối với vô minh, Ta sống hạnh viễn ly, Sau khi chinh phục được, Tận gốc cả tham ái, Ta được sống mát lạnh, Tịch tịnh và an lặng.
19. Này Nandà, hãy nhìn,
Tấm thân chỗ quy tụ, Nhiều bệnh hoạn, bất tịnh, Ðầy hôi hám thối nát, Tâm nàng hãy tu tập, Quán tri tánh bất tịnh, Ðạt cho được nhất tâm, Tâm tư khéo thiền định.
20. Hãy tu tập vô tướng,
Hãy bỏ mạn tùy miên, Do thắng tri được mạn, Nàng sẽ sống an tịnh.
21. Chính Bảy giác chi này
Là đường đạt Niết-bàn, Tất cả, ta tu tập, Như lời Đức Phật dạy.
22. Ta thấy được Thế Tôn,
Ðây thân tụ cuối cùng Vòng sanh tử đoạn tận, Nay không còn tái sanh.
23. Hỡi thiện giải thoát Ni,
Lành thay khéo giải thoát, Ta được khéo giải thoát, Khỏi cái chày giã gạo, Ta không còn xấu hổ, Với ông chồng đan dù, Với soong chảo nấu ăn, Với nghèo đói tồi tàn.
24. Chặt đứt được tham sân,
Ta sống không tham sân, Ta đi đến gốc cây, Ôi, an lạc ta thiền.
25. Tiền lạc thú của ta,
Không thua thuế Kàsi, Sau khi so sánh giá, Thôn trưởng định giá vậy.
26. Nay ta lại nhàm chán,
Chính sắc đẹp của ta, Ta chán ngấy sắc ấy, Ta không còn luyến tiếc. Ta chớ có liên tục, Chạy theo vòng luân hồi, Ba minh ta chứng được, Thành tựu lời Phật dạy.
27. Dầu ta có mỏi mệt,
Bệnh hoạn quá yếu đuối, Dựa trên gậy ta đi, Ta leo lên đỉnh núi.
28. Với đại y vắt ngang,
Với bình bát lộn ngược, Ta dựa mình tảng đá, Phá tan khối si ám.
29. Dầu ta có đau đớn,
Sức yếu, tuổi trẻ qua, Dựa trên gậy, ta đi, Ta leo lên đỉnh núi.
30. Với đại y vắt ngang,
Với bình bát lộn ngược, Ta ngồi trên tảng đá, Tâm ta được giải thoát. Ba minh chứng đạt được, Thành tựu lời Phật dạy.
31. Ngày mười bốn, ngày rằm,
Ngày mồng tám giữa tháng, Ngày thần túc nguyệt phần, Ta thọ trì tám giới.
32. Ta gìn giữ trai giới,
Khiến chư Thiên hoan hỷ, Mỗi ngày ăn một bữa, Cạo đầu đắp đại y, Ta đâu muốn thiên giới, Ta nhiếp phục tâm khổ.
33. Hỡi thân mẫu thân yêu!
Từ bàn chân trở lên, Từ đầu tóc trở xuống, Hãy quán sát thân này, Thân này thật bất tịnh, Thật hôi hám thối tha.
34. Ta an trú như vậy,
Mọi tham dục nhổ sạch, Nhiệt não được đoạn trừ, Ta mát lạnh, tịch tịnh.
36. Hỡi này vô úy Ni!
Thân này thật mỏng manh, Chính ở đây phàm phu, Ưa thích, thường tham đắm. Ta sẽ bỏ thân này, Tỉnh giác và chánh niệm Chú tâm không phóng dật, Ta gắng thoát pháp khổ, Ái diệt, ta chứng đạt, Thành tựu lời Phật dạy.
37. Bốn lần và năm lần,
Ta ra khỏi tinh xá, Nhưng tâm không an tịnh, Không nhiếp phục được tâm.
38. Nhưng đến đêm mồng tám,
Ái được ta nhổ sạch Chú tâm không phóng dật, Ta gắng thoát pháp khổ, Ái diệt, ta chứng đạt, Thành tựu lời Phật dạy.
39. Ðã được hăm lăm năm,
Từ khi ta xuất gia.
40. Ta không thắng tri tâm,
Không được tâm thăng bằng, Tâm không được an tịnh, Không nhiếp phục được tâm Do vậy ta dao động, Nhớ đến lời Phật dạy.
41. Chú tâm không phóng dật
Ta gắng thoát pháp khổ, Ái diệt, ta chứng đạt, Thành tựu lời Phật dạy Hôm nay đêm mồng bảy, Khái ái được khô cạn.
42. Bốn lần và năm lần,
Ta ra khỏi tinh xá. Nhưng tâm không an tịnh, Không nhiếp phục được tâm.
43. Ta đến Tỷ-kheo -ni,
Với ta đồng tín nữ, Nàng thuyết pháp cho ta, Với uẩn, xứ và giới.
44. Nghe xong pháp nàng thuyết,
Như nàng đã dạy ta, Bảy ngày ngồi kiết-già, Ta thọ hưởng hỷ lạc, Mồng tám ta duỗi chân, Phá tan khối si ám.
45. Bảy pháp giác chi này,
Con đường đạt Niết-bàn, Tất cả ta tu tập, Như lời Đức Phật dạy.
46. Do quán không vô tướng
Ta đạt quả mong muốn, Ta thành con gái Phật, Sanh ra từ miệng Ngài, Luôn luôn ta hoan hỷ.
47. Trong an lạc Niết-bàn,
Mọi dục được đoạn diệt, Dục trời và dục người, Vòng sanh hữu đoạn tận, Nay không còn tái sanh.
48. Ra khỏi ngôi tinh xá,
Ðể nghỉ trưa ban ngày, Trên đỉnh núi Linh Thứu, Ta thấy một con voi, Dầm nước xong đi lên, Trên bờ một con sông.
49. Một người cầm cái móc,
Yêu cầu đưa chân lên, Con voi duỗi chân ra, Và người leo lên voi.
50. Thấy kẻ chưa nhiếp phục,
Ði đến được nhiếp phục, Ta thấy nó vâng chịu, Theo quyền lực của người. Như vậy, ta định tâm, Ði vào trong rừng ấy.
51. Hỡi nàng Ubirì,
Nàng khóc trong rừng sâu, Khóc than ôi Jivà, Con gái thân của tôi, Hãy tự mình hồi tỉnh, Hỡi này Ubirì! Trong bãi đốt thân này Tất cả tám vạn tư, Người đồng tên Jivà Nàng khóc Jivà nào?
52. Mũi tên khó nhìn thấy,
Ðâm dính nơi tâm ta, Chắc chắn đã được Ngài, Nhổ lên khỏi tâm ta, Sầu muộn vì con gái, Ðã được chấm dứt hẳn.
53. Nay mũi tên được nhổ,
Mọi ham muốn lắng dịu, Ta đi đến quy y Bậc Mâu-ni ẩn sĩ, Quy y Ba ngôi báu Phật, Pháp và chúng Tăng.
54. Hỡi này người Vương Xá,
Các người đã làm gì? Giống như người nằm mê, Bị say vì uống mật! Các người không hầu hạ, Sukkà thuyết lời Phật.
55. Chúng tôi nghĩ bậc trí,
Uống được nước cam lồ, Dòng nước thật thuần tinh, Không gì chướng ngại nổi Chẳng khác kẻ đi đường, Ðón nhận nước trời mưa.
56. Hỡi này nàng Sukkà!
Người con của ánh sáng! Ðược ly tham định tĩnh, Nhờ ánh sáng Chánh pháp, Hãy mang thân cuối cùng, Sau khi thấy ma quân.
57. Nàng sẽ không thoát khỏi,
Thoát ly khỏi đời này, Như vậy hạnh viễn ly, Nàng dùng để làm gì? Hãy thọ hưởng dục lạc, Chớ bứt rứt về sau.
58. Các dục giống gươm giáo,
Chém nát các uẩn ta, Những dục mà ngươi gọi, Là lạc thú cuộc đời.
59. Ngày nay dục lạc ấy,
Với ta không hấp dẫn, Ở tất cả mọi nơi, Hỷ lạc được đoạn tận, Khối tối tăm mù ám, Ðã bị làm tan nát, Hỡi này kẻ Ác ma, Ngươi hãy biết như vậy, Ngươi chính là Ác ma Ngươi đã bị bại trận.
60. Ðịa vị khó chứng đạt,
Chỉ thánh nhân chứng đạt, Trí nữ nhân hai ngón, Sao hy vọng chứng đạt.
61-62. Nữ tánh chướng ngại gì,
Khi tâm khéo thiền định, Khi trí tuệ triển khai, Chánh quán pháp vi diệu, Ở tất cả mọi nơi, Hỷ lạc được đoạn tận, Khối tối tăm mù mịt, Ðã bị làm tan nát. Hỡi này kẻ Ác ma, Ngươi hãy biết như vậy, Ngươi chính là Ác ma, Ngươi đã bị bại trận.
63. Con được thừa tự Phật,
Ca-diếp khéo thiền định. Biết được đời quá khứ, Thấy cõi trời đọa xứ.
64. ẩn sĩ đoạt diệt sanh,
Thắng trí được thành tựu Cùng với Ba minh này, Là Phạm chí Ba minh.
65. Cũng vậy nàng Bhaddà
Người xứ Kapila, Nàng là bậc Ba minh, Ðã đoạn được sự chết, Mang thân này cuối cùng, Sau khi thắng ma quân.
66. Thấy nguy hại ở đời,
Hai chúng tôi xuất gia. Chúng tôi được chế ngự, Ðoạn tận các lậu hoặc, Cảm xúc thành mát lạnh, Ðược tịch tịnh giải thoát.
67. Ðã được hai lăm năm,
Từ khi ta xuất gia, Cho đến búng ngón tay, Tâm ta không lắng dịu.
68. Tâm không được an tịnh,
Vì đầy ứ dục tham, Ta giơ tay khóc than, Ta đi vào tinh xá.
69. Ta đến vị Ni ấy,
Ðồng tín nữ với ta, Nàng thuyết pháp cho ta, Về uẩn, xứ và giới.
70. Nghe pháp nàng giảng dạy,
Ta ngồi vào một bên, Ta hết đời quá khứ, Thiên nhãn được thanh tịnh, Với trí biết tâm người, Lỗ tai được thanh tịnh.
71. Ta chứng thần túc thông,
Ta đạt được lậu tận, Sáu thắng trí ta chứng, Lời Phật dạy đã làm.
72. Say mê với giai cấp,
Với dung sắc tuổi xuân, Với danh xưng, danh vọng, Ta ỷ lại tuổi trẻ, Ðối với những người khác, Ta khinh bỉ khinh thường.
73. Thân này ta trang điểm,
Ta khêu gợi kẻ ngu, Ta đứng trong khung cửa, Tại cửa hàng buôn sắc, Như thợ săn, ác độc, Ðang gieo đặt bẫy mồi.
74. Ta khoa trương trang sức,
Phô bày nhiều chỗ kín, Ðể châm biếm nhiều người, Ta làm nhiều ảo thuật, Hôm nay ta khất thực, Ðầu trọc, đắc đại y, Ta ngồi dưới gốc cây, Ta chứng định không tầm.
75. Mọi khổ ách đoạn tận,
Cả cõi trời, cõi người, Quăng bỏ mọi lậu hoặc, Ta mát lạnh tịch tịnh.
77. Không như lý tác ý,
Bị dục tham ám ảnh, Ta trước bị dao động Không chế ngự được tâm.
78. Bị phiền não chi phối,
Lạc tưởng ngự trị ta Tâm ta không thăng bằng, Bị tham tâm chi phối.
79. Bảy năm sống ốm yếu,
Vàng da, dung sắc xấu Ðêm ngày không an lạc Ta sống chịu khổ đau.
80. Do vậy ta lấy dây,
Ði vào giữa khu rừng, Tốt hơn ta treo cổ, Còn hơn sống hạ liệt.
81. Làm chắc dây thòng lọng,
Ta cột ở cành cây, Quàng thòng lọng quanh cổ, Tâm ta liền giải thoát.
82. Nandà, hãy nhìn thân,
Bệnh bất tịnh, hôi thúi, Hãy tu tâm bất tịnh, Nhứt tâm khéo định tỉnh.
83. Như thân này thân ấy,
Như thân ấy thân này, Hôi thối và rữa nát, Chỉ kẻ ngu thích thú.
84. Như vậy quán thân này,
Ngày đêm không mệt mỏi, Với trí tuệ của con, Do vậy hãy thoát ly, Với trí tuệ của con, Thoát khỏi kiêu sắc đẹp, Và người si nhìn thấy, Với cái nhìn như thật.
85. Thành này làm bằng xương,
Quét tô bằng máu thịt, Ở đây già và chết, Mạn, lừa đảo chất chứa. (Pháp Cú. 150)
86. Với tâm không phóng dật,
Như lý, quán thân ấy, Tánh như thật thân này, Ðược thấy trong và ngoài. Ta nhàm chán thân thể, Nội tâm được ly tham, Không phóng dật ly hệ, Ta an bình tịch tịnh.
87. Trước ta đảnh lễ lửa,
Trăng, mặt trời chư thiên Ta đi đến bến sông, Ta xuống nước, lê tắm.
88. Chấp nhận nhiều giới cấm
Ta chỉ cạo nửa đầu Ta nằm ngủ dưới đất, Cơm tối ta không ăn.
89. Thích trang điểm trang sức,
Ưa tắm rửa, xoa bóp, Thân này ta cung dưỡng, Thỏa mãn các dục tham,
90. Từ khi được lòng tin
Không nhà ta xuất gia, Ta thấy thân như Phật, Nhờ sạch các dục tham.
91. Mọi sanh hữu chặt đứt,
Cả ham muốn hy cầu, Mọi ách nạn giải tỏa, Ta đạt tâm an tịnh.
92. Vì lòng tin, xuất gia,
Bỏ nhà, sống không nhà, Ta sống tâm hướng mạnh, Theo lợi dưỡng cung kính.
93. Từ bỏ đích tối thượng,
Phục vụ đích hạ liệt, Bị phiền não ngự trị, Bỏ đích Sa-môn hạnh.
94. Ngồi trong phòng tinh xá,
Ta cảm bị dao động Ta đi vào tà đạo, Khát ái ngự trị ta.
95. Ngắn ngủi sinh mạng ta,
Già, bệnh đang đè nặng, Trước khi thân hủy diệt, Giờ phóng dật không còn.
96. Như thật ta quán sát,
Sinh diệt của các uẩn, Tâm giải thoát, ta chứng, Lời Phật dạy làm xong.
97. Khi sống ở gia đình,
Nghe Tỷ kheo thuyết pháp, Ta thấy pháp vô uế, Ðạo Niết-bàn bất tử.
98. Từ bỏ con trai, gái,
Cả tài sản lúa gạo, Cạo tóc ta xuất gia Sống đời sống không nhà.
99. Ta làm người học nữ,
Tu tập con đường chánh, Ðoạn tận tham và sân, Ðoạn từng lậu hoặc một.
100. Thọ giới Tỷ-kheo-ni,
Ta nhớ đời quá khứ, Thiên nhãn ta thanh tịnh, Không uế, khéo tu tập.
101. Thấy các hàng ngoại diện,
Do nhân sanh biến hoại, Ta đoạn mọi lậu hoặc, Mát lạnh ta tịch tịnh.
Ai sống một trăm năm,
Không thấy câu bất tử, Tốt hơn sống một ngày, Thấy được câu bất tử. (Pháp cú. 114)
102. Ta sanh được mười con,
Trong thân chất chứa này, Do vậy ta già yếu, Ta đến Tỷ-kheo-ni.
103. Nàng thuyết pháp cho ta,
Về uẩn xứ và giới, Nghe pháp nàng thuyết giảng. Cắt tóc ta xuất gia.
104. Ta học lời nàng dạy,
Thiên nhãn ta thanh tịnh, Ta biết các đời trước, Chỗ ta sống đời trước.
105. Ta tu pháp vô tướng,
Nhất tâm khéo thiền tịnh, Tức thời ta giải thoát, Không chấp thủ tịch tịnh.
106. Năm uẩn được liễu tri,
Ðứng lại, gốc bị cắt, Tham dục, ta không có, Căn cứ địa kiên trì? Từ nay ta không còn Vấn đề phải tái sanh.
Không phải là lúc nào,
Ðàn ông cũng khôn hơn! Nữ nhân khi lanh lẹ, Cũng tỏ khôn ngoan hơn, Không phải là lúc nào, Ðàn ông cũng khôn hơn! Nữ nhân cũng khôn ngoan, Chỉ nghĩ một phút giây!
Dầu nói ngàn câu kệ,
Nhưng không chút lợi ích, Tốt hơn nói một câu, Nghe xong được tịnh lạc. (Pháp cú 101)
107. Trước ta sống một y,
Tóc cạo, thân mang bùn, Không lỗi xem có lỗi, Có lỗi xem là không.
108. Ban ngày rời tinh xá,
Trên ngọn núi Linh Thứu, Ta thấy Phật vô uế, Dẫn đầu chúng Tỷ-kheo.
109. Quỳ gối ta đảnh lễ,
Ðối diện ta chắp tay, Hãy đến này Bhaddà, Ta được thọ đại giới.
110. Ta đi khắp Angà,
Mogadhà, Vajjì, Quốc độ Kosala, Mười lăm năm không nợ, Ăn đồ ăn quốc độ.
111. Làm được nhiều công đức,
Tín nam này có tuệ, Cho Bhaddà chiếc y, Thoát khỏi mọi triền phược.
Hai con ta đã chết,
Chồng ta cũng chết luôn, Rồi trên giàn hỏa táng, Cha ta và mẹ ta, Cùng đứa em trai ta, Vừa làm lễ thiêu đốt.
Nước bốn biển ít hơn,
Nước mắt của loài Người, Khóc than vì đau khổ, Vậy sao nàng hủy hoại, Sanh mạng của chính mình, Trong khóc than sầu khổ!
Các con, cha, bà con,
Không phải chỗ nương tựa, Khi thân hoại mạng chung, Bà con huyết thống nàng, Không thể che chở nàng! Thấy được sự thật này. Kẻ trí sống giới đức, Và mau chóng thành tựu, Con đường hướng Niết-bàn.
Người sống một trăm năm,
Không thấy pháp sanh diệt, Tốt hơn sống một ngày, Thấy được pháp sanh diệt. (Pháp cú. 113)
112. Với cây, cày ruộng đất,
Gieo hột giống trên đất, Loài Người được tài sản, Nuôi dưỡng vợ và con.
113. Sao ta, giới đầy đủ
Làm theo Ðạo Sư dạy, Lại không chứng Niết-bàn, Không nhác, không dao động.
114. Khi ta đang rửa chân,
Làm cho dòng nước chảy, Thấy được nước rửa chân Từ cao chảy xuống thấp, Nhờ vậy, tâm được định, Như ngựa hiền khéo luyện.
115. Rồi ta cầm cây đèn,
Bước vào ngôi tinh xá, Nằm trên chiếc giường nhỏ, Ta nhìn quán ngọn đèn.
116. Rồi lấy cây kim nhỏ,
Dìm tim đèn xuống dần, Thấy cây đèn Niết-bàn, Tâm ta được giải thoát.
117. Loài Người trong tuổi trẻ,
Cầm chày giã lúa gạo, Loài Người được tài sản, Nuôi dưỡng vợ và con.
118. Hãy hành lời Phật dạy,
Không làm gì nhiệt não, Rửa chân thật mau lẹ, Hãy ngồi xuống một bên, Chú tâm tu tâm chỉ, Làm theo lời Phật dạy.
119. Sau khi nghe lời dạy,
Lời Patàcàrà, Sau khi rửa chân xong, Họ vào ngồi một bên, Chú tâm tu tâm chỉ, Làm theo lời Phật dạy.
120. Trong đêm canh thứ nhất,
Họ nhớ đời quá khứ Trong đêm canh chặng giữa, Thiên nhãn được thanh tịnh, Trong đêm canh cuối cùng, Khối si ám phá tan.
121. Ðứng dậy họ lễ chân,
Vị giáo giới cho họ, Như Chư Thiên ba mươi Ðảnh lễ vị Sakka, Vị không bị đánh bại, Ở lại chỗ chiến trường, Ðặt Patàcàrà, Vào hàng bậc lãnh đạo, Chúng tôi sẽ được sống, Ba minh, không lậu hoặc.
122. Trước ta sống bất hạnh,
Không chồng và không con, Không bè bạn, bà con, Không có cơm, có áo.
123. Ta cầm gậy bình bát
Ði ăn xin từng nhà, Bị lạnh nóng đày đọa, Bảy năm ta sống vậy.
124. Thấy được Tỷ-kheo-ni,
Ta nhận đồ ăn uống, Sau khi đến, ta xin, Ðược xuất gia không nhà.
125. Nàng Patàcàarà,
Thương ta, cho xuất gia, Rồi giảng dạy cho ta, Hướng dẫn đến chân đế.
126. Nghe xong lời nàng giảng.
Ta làm theo lời dạy, Lời giảng bậc tôn Ni, Không phải lời trống không, Ta chứng được Ba minh, Ta không còn lậu hoặc.
127. Ông không biết con đường
Nó đến hay nó đi, Từ đâu con trai đến, Ông lại khóc: "Con tôi".
128. Ông đâu biết con đường,
Nó đến hay nó đi, Ông khóc nó làm gì? Pháp hữu tình là vậy.
129. Không có ai yêu cầu,
Từ chỗ kia, nó đến, Không có ai cho phép, Từ chỗ này, nó đi, Từ đâu, nó đến đây! Ðược sống bấy nhiêu ngày.
130. Từ chỗ này nó đến,
Từ chỗ kia, nó đi, Nó đến một con đường! Nó đi một con đường, Mệnh chung, hình sắc người, Luân hồi, nó sẽ đi! Ðến vậy, đi như kia, Ở đây, khóc than gì?
131. Cây tên, khó thấy được,
Từ tim ta, nhổ lên: Nàng diệt sầu vì con, Sầu ấy ám ảnh ta.
132. Nay cây tên được nhổ
Không dục cầu, tịch tịnh Ta quy y ẩn sĩ, Phật, Pháp và chúng Tăng.
133. Ta sầu muộn vì con
Khổ, tâm cuồng tưởng loạn, Lõa thể, tóc rối ren, Ðời sống vậy, ta sống.
134. Lang thang đường, đống rác,
Nghĩa địa, đường xe đi, Ba năm ta đã sống, Kham khổ, chịu đói khát.
135. Rồi ta thấy Thiện Thệ,
Ðến thành Mi-thi-la, Ðiều ngự kẻ chưa điều, Bậc Giác Ngộ, vô úy.
136. Lấy lui tâm bình tĩnh,
Ta đảnh lễ đến gần. Thương ta, Gotama, Ngài thuyết pháp cho ta.
137. Nghe Ngài thuyết pháp xong,
Ta xuất gia, không nhà, Tùy hành lời Ðạo Sư, Ta chứng đạo an ổn.
138. Mọi sầu muộn chặt đứt,
Ðoạn tận, được chấm dứt, Ta liễu tri nền gốc, Từ đấy sầu muộn sanh.
Người đắm say các dục,
Tự lao mình xuống dòng, Như nhện sa lưới dệt, Người trí cắt trừ nó, Bỏ mọi kệ không màng. (Pháp cú, 347)
139. Nàng vừa trẻ vừa đẹp,
Ta vừa trẻ vừa xuân, Với cung đàn năm điệu, Hãy vui hưởng, Khemà.
140. Với thân hôi thối này,
Bệnh hoạn và mong manh, Ta nhàm chán ghét bỏ, Dục ái đã nhổ lên.
141. Dục ví như gươm giáo,
Các uẩn đoạn đầu đài, Ðiều người nói dục lạc, Nay ta đã xa lìa.
142. Mọi nơi, hỷ duyệt đoạn,
Khối si ám tan tành, Hãy biết vậy, Ác ma! Ngươi bị hại, Ma vương.
143. Ngươi đánh lễ vầng sao!
Ngươi thờ lửa rừng sâu, Ngươi không biết như thật, Kẻ ngu nghĩ rằng tịnh.
144. Còn ta, ta đảnh lễ,
Bậc Giác ngộ, Thượng nhân, Giải thoát mọi khổ đau, Hành lời Ðạo Sư dạy.
145. Trang sức, mặc áo đẹp
Vòng hoa, xức chiên đàn, Ðeo mọi loại nữ trang Cầm đầu chúng nữ tỳ.
146. Mang theo đồ ăn uống,
Nhiều món ăn cứng mềm, Từ nhà ta đi ra, Ði đến vườn thưởng ngoạn.
147. Tại đây ta vui chơi,
Rồi ta đi về nhà, Ta thấy ngôi tinh xá, Khi ta bước vào rừng, Rừng tên Anjanà, Tại xứ Sàketa.
148. Thấy hào quang thế giới,
Ðảnh lễ, ta tới gần, Thương ta, bậc Pháp nhãn, Ngài thuyết pháp cho ta.
149. Nghe xong bậc Ðại tiên,
Ta thể nhập chân lý, Tại đấy ta chứng pháp, Ly trần tạo bất tử.
150. Do liễu tri diệu pháp,
Ta xuất gia, không nhà, Ba minh ta đạt được, Không trống rỗng lời Phật.
151. Sanh gia đình cao quý,
Nhiều châu báu, tài sản, Ðầy đủ dung sắc đẹp, Con gái cưng Majjha.
152. Ðược con vua cầu hôn,
Con phú gia xin cưới, Sứ giả đến cha ta, Cho tôi Anopham.
153. Công chúa con gái ngài,
Cân nặng như thế nào Tôi sẽ tặng tám lần Bằng vàng ròng châu báu.
154. Ta thấy đấng Giác ngộ,
Bậc Thế Tôn vô thượng, Ta đảnh lễ chân Ngài, Ðến gần, ngồi một bên.
155. Thương ta, Gotama,
Ngài thuyết pháp cho ta. Ngay tại chỗ ngồi ấy, Ta chứng quả thứ ba.
156. Rồi ta cạo bỏ tóc,
Xuất gia, sống không nhà, Hôm nay, đêm thứ bảy, Khát ái được gột sạch.
157. Bậc Giác ngộ anh hùng!
Con xin đảnh lễ Ngài, Ngài là bậc Tối thượng, Giữa mọi loài chúng sanh, Ngài giải khổ cho con, Cùng rất nhiều người khác.
158. Liễu tri mọi đau khổ,
Gột sạch nhân khát ái, Con đường Thánh tám ngành, Ðoạn diệt, ta chứng ngộ.
159. Trước ta sống là mẹ,
Là con, là cha, anh, Là ông nội, ông ngoại, Ðời sống trước là vậy, Không rõ biết như thật, Luân hồi, tìm không gặp.
160. Nay ta thấy Thế Tôn,
Thân này thân tối hậu, Sanh tử được đoạn tận, Nay không còn tái sanh. Siêng, tinh cần nỗ lực, Thường, kiên trì tinh tấn, Hãy thắng đệ tử Phật, Hòa hợp, đảnh lễ Ngài. Vì hạnh phúc nhiều người, Ma-yà sanh Cù-đàm, Giải tỏa nhóm khổ đau Cho người bị bệnh chết?
163. Vì mục đích tối thượng,
Guttà, người xuất gia, Từ bỏ cả con cái, Cho đến bản thân mình, Hãy nhiệt tâm hành trì, Chớ để tâm chi phối.
164. Tâm lừa đảo chúng sanh,
Ưa ác ma lãnh vực, Luân hồi nhiều đời sống, Chúng dong ruổi, si mê.
165. Dục vọng và sân hận,
Kể cả với thân kiến, Cộng thêm giới cấm thủ Với nghi hoặc thứ năm.
166. Hỡi này, Tỷ-kheo-ni,
Từ bỏ kiết sử này, Là hạ phần kiết sử, Ngươi hết lại đời này.
167. Hãy tránh xa tham mạn,
Vô minh và trạo cử, Chặt đứt kiến sử xong, Ngươi sẽ dứt đau khổ.
168. Quảng bỏ vòng sanh tử,
Liễu tri sự tái sanh, Hiện tại không ước vọng, Ngươi sẽ sống an tịnh.
169. Bốn lần và năm lần
Ta ra khỏi tinh xá, Tâm không được an tịnh, Không chế ngự được tâm.
170. Ta đến Tỷ-kheo-ni,
Ta hỏi, đàm luận pháp, Nàng thuyết pháp cho ta, Về giới và về xứ.
171. Bốn sự thật bậc Thánh
Về các căn, các lực, Giác chi, tám đường chánh, Ðạt đạo tối thượng nghĩa.
172. Nghe lời vị ấy dạy,
Ta làm theo giáo huấn, Trong đêm canh thứ nhất, Ta nhớ đến đời trước.
173. Trong đêm canh chặng giữa
Thiên nhãn được thanh tịnh, Trong đêm canh cuối cùng, Khối si ám tan tành.
174. Từ đấy ta được sống,
Biến mãn thân hỷ lạc, Ðêm thứ bảy, duỗi chân, Khối si ám tan tành.
175. Loài Người trong tuổi trẻ,
Cầm chày giã lúa gạo, Tuổi trẻ được tài sản, Nuôi dưỡng vợ và con.
176. Hãy hành lời Phật dạy,
Không làm gì nhiệt não, Rửa chân thật mau lẹ, Hãy ngồi xuống một bên.
177. Sau khi an trú tâm,
Nhứt tâm, khéo định tĩnh, Hãy quán sát các hành, Thuộc ngoại, không thuộc ngã.
178. Ta nghe lời giáo huấn,
Lời Patàcàrà; Sau khi ta rửa chân, Bước vào, ngồi một bên.
179. Trong đêm canh thứ nhất,
Ta nhớ đời quá khứ, Trong đêm canh chặng giữa Thiên nhãn được thanh tịnh.
180. Trong đêm canh cuối cùng,
Khỏi si ám tan tành, Từ ba minh, đứng dậy Giáo huấn Ngài, làm xong.
181. Như Thiên chủ Sakka,
Ở cõi trời Ba mươi, Không bao giờ bại trận, Ở tại các chiến trường, Ta sống, tôn xưng Ngài, Là bậc Thầy lãnh đạo, Ta chứng được ba minh, Ta không còn lậu hoặc.
182. Sau khi an trú niệm,
Tỷ-kheo-ni luyện căn, Thể nhập đạo an tịnh, An lạc tịnh các hành.
183. Vì ai, ngươi đầu trọc,
Hiện tướng, Sa-môn ni? Không theo hệ phái nào, Sao sống si mê vậy?
184. Các hệ phái ngoại đạo
Nương tựa trên tà kiến, Họ không hiểu Chánh pháp Họ không thuần thục pháp.
185. Sanh gia tộc Thích-ca,
Ðức Phật, bậc vô tỷ Ngài thuyết pháp cho ta, Vượt qua các tà kiến.
186. Ngài thuyết Tám thánh đạo,
Về khổ, nguyên nhân khổ, Về vượt qua đau khổ Và con đường khổ diệt.
187. Ta nghe lời Phật dạy,
Sống vui thích giáo pháp, Ba minh đã đạt được, Lời Phật dạy làm xong.
188. Mọi nơi, hỷ duyệt đoạn,
Khỏi si ám tan tành! Hãy biết vậy, Ác ma! Người bị hại, Ma vương.
189. Trú niệm có pháp nhãn
Tỷ-kheo-ni luyện căn, Thể nhập đạo an tịnh, Bậc thượng nhân hành trì.
190. Sao ngươi không thích sanh,
Có sanh mới hưởng dục, Hãy hưởng thọ dục lạc, Chớ hối tiếc về sau.
191. Ðã sanh, thời bị chết,
Tay chân bị đứt đoạn, Bị giết, trói, phiền não. Sau đưa đến khổ đau.
192. Sanh gia bậc Thích-ca
Ðức Phật không chiến bại. Ngài thuyết pháp cho ta, Vượt qua khỏi sự sanh.
193. Ngài thuyết Tám thánh đạo,
Về khổ, nguyên nhân khổ, Về vượt qua đau khổ, Và con đường khổ diệt.
194. Ta nghe lời Ngài dạy,
Sống vui thích giáo pháp, Ba minh đã đạt được, Lời Phật dạy làm xong.
195. Mọi nơi, hỷ duyệt đoạn,
Khỏi si ám tan tành, Hãy biết vậy, Ác ma! Ngươi bị hại, Ma vương.
196. Tỷ-kheo-ni giữ giới,
Khéo hộ trì các căn, Ðạt được đạo an tịnh, Nước cam lồ thuần tịnh.
197. Chư Thiên cõi Ba mươi,
Dạ-ma và Ðâu-suất, Chư Thiên trời Hóa Lạc, Chư Thiên cõi Tự Tại. Hãy hướng tâm chỗ ấy, Chỗ xưa kia nàng sống.
198. Chư Thiên cõi Ba mươi,
Dạ-ma và Ðâu-suất, Chư Thiên trời Hóa Lạc, Chư Thiên cõi Tự Tại.
199. Thời này đến thời khác,
Hữu này đến hữu khác, Chúng đều bị thân kiến, Lãnh đạo và chi phối, Chúng không vượt thân kiến, Luân chuyển vòng sanh tử,
200. Toàn thế giới bốc cháy
Toàn thế giới đồng cháy, Toàn thế giới bừng cháy, Toàn thế giới rung động.
201. Phật thuyết pháp cho ta,
Pháp bất động vô tỷ, Ðược bậc không phàm phu, Phục vụ và nhiệt hành, Chỗ ấy, tâm ý ta, Hân hoan và ưa thích.
202. Ta nghe lời vị ấy,
Sống vui trong giáo pháp, Ba minh đã đạt được, Lời Phật dạy làm xong.
203. Mọi chỗ, hỷ diệt đoạn,
Khỏi si ám tan tành, Hãy biết vậy, Ác ma! Người bị bại, Ma Vương.
204. Vaddha, chớ bao giờ,
Rơi vào cõi tham dục, Này con, chớ chia phần, Trong đau khổ liên tục.
205. Hạnh phúc là ẩn sĩ,
Không tham, nghi đoạn tận, Sống mát lạnh, chế ngự, Không còn các lậu hoặc.
206. ẩn sĩ ấy hành trì,
Con đường đạt chánh kiến, Chấm dứt sự khổ đau, Vaddha! Hãy tiến tu.
207. Với tự tín mẹ nói,
Mục đích này cho con, Mẹ thân! Con nghĩ rằng, Mẹ không còn tham dục.
208. Vaddha! Phàm hành gì,
Thấp, cao hay bậc trung, Một tí nhỏ tham dục, Không có ở nơi ta.
209. Ta đoạn mọi lậu hoặc,
Không phóng dật, thiền tu, Ba minh đã đạt được, Làm xong lời dạy.
210. Vi diệu thay, mẹ ta,
Khích lệ, thúc đẩy ta, Những kệ thuộc chân đế, Với lòng từ thương tưởng.
211. Ta nghe lời mẹ dạy,
Lời giáo giới mẹ hiền, Ta hành pháp cảm kích, Ðạt an ổn khổ ách.
212. Ta tinh tấn tinh cần,
Ngày đêm không biếng nhác, Ðược mẹ khéo khích lệ, Ta chứng tịnh tối tượng.
Pháp này không riêng làng,
Không riêng thành, gia tộc, Không riêng cho một ai, Cho đến toàn thế giới, Kể cả các chư Thiên, Ở tại mọi từng trời, Pháp nhĩ là như vậy. Tất cả là vô thường.
Tâm còn bị đắm say,
Con cái và súc vật, Tử thần bắt người ấy, Như lụt trôi làng ngủ (Pháp cú, 287)
Người sống một trăm năm,
Không thấy pháp sanh diệt, Tốt hơn sống một ngày, Thấy được pháp sanh diệt. (Pháp Cú 113)
213. Bạn lành được ẩn sĩ,
Khắp thế giới, ngợi khen, Thân cận với bạn lành, Kẻ ngu thành người trí.
214. Hãy thân bậc chân nhân,
Thân vậy, trí tăng trưởng, Thân cận bậc chân nhân, Mọi khổ đau được thoát.
215. Hãy biết, Bốn thánh đế,
Khổ và khổ tập khởi, Biết về đau khổ diệt, Và đoạn Thánh tám ngành.
216. Khổ thay phận nữ nhân,
Chính Ngài đã nói lên, Bậc đánh xe điều ngự, Những ai đáng điều ngự, Khổ thay phận chồng chung, Nhiều người một lần sanh.
217. Trong đau khổ đâm họng,
Mẹ yếu uống thuốc độc, Trường hợp gặp bào thai, Bị chết khi đang sanh, Cả hai mẹ và con, Ðều cùng gặp tai nạn.
218. Khi mang thai đi về,
Ta thấy chồng chết đường, Và khi ta sanh đẻ, Ta không về đến nhà.
219. Hai con đều bị chết,
Chồng nữ nhân khốn khổ, Lại bị chết giữa đường; Mẹ, cha và cả anh, Ðều cùng bị thiêu đốt, Dồn chung trên đống lửa.
220. Ôi, nữ nhân khốn khổ,
Sanh gia cảnh khốn cùng, Người phải chịu khổ đau, Vô lượng, không kể xiết. Nước mắt người đã khóc, Trải nhiều ngàn lần sanh.
221. Ta thấy giữa nghĩa trang,
Thịt con ta bị ăn, Gia đình bị tàn hại, Bị mọi người khinh bỉ, Tuy vậy, người chết chồng. Ðạt được sự bất tử.
222. Ta tu tập Thánh đạo,
Ðường tám ngành, bất tử, Ta chứng được Niết-bàn, Thấy được gương Chánh pháp.
223. Trên ta, mũi tên đâm,
Ðã được rút ra khỏi, Gánh nặng đã đặt xuống, Việc nên làm đã làm, Ta là Trưởng lão Ni, Kisà-Gotamì, Với tâm khéo giải thoát, Ta nói lên đời này.
224. Hai, mẹ và con gái,
Chúng tôi sống một chồng, Lời nàng đã nói lên Làm ta xúc động mạnh, Cảnh ngộ thật hy hữu, Làm tóc lông dựng ngược.
225. Ðáng ngán thay các dục,
Bất tịnh, hôi, nhiều gai, Ở đây, mẹ, con gái, Chúng tôi lấy một chồng.
226. Thấy nguy hiểm trong dục,
Viễn ly an ổn vững Nàng xuất gia Vương Xá, Bỏ nhà, sống không nhà.
227. Ta biết các đời trước,
Thiên nhãn được thanh tịnh, Trí biết được tâm người, Nhĩ giới được trong sạch.
228. Ta chứng được thần thông,
Lậu tận ta đạt được, Ta chứng sáu thắng trí, Lời Phật dạy, làm xong.
229. Do hiện hóa thần thông,
Ta đến xe bốn ngựa, Ta đảnh lễ chân Phật, Thế giới chủ, quang vinh.
230. Nàng đi đến gốc cây,
Ðang nở hoa tuyệt đẹp, Nàng đến, đứng một mình, Dưới gốc cây có hoa! Nàng đến chỉ một mình; Này kẻ dại khờ kia, Sao nàng lại không sợ, Có kẻ cám dỗ nàng!
231. Trăm ngàn người cám dỗ,
Có đến đây như ngươi, Mảy lông ta không động, Ta không gì hoảng hốt, Ác ma, làm gì ta, Khi ngươi đến một mình.
232. Ta có thể biến mất,
Hay vào bụng nhà ngươi, Ta đứng giữa hàng mi, Ngươi không thấy ta đứng.
233. Với tâm khéo nhiếp phục,
Thần túc khéo tu trì, Sáu thắng trí, ta chứng, Lời Phật dạy, làm xong.
234. Các dục giống gươm giáo,
Chém nát các uẩn ta, Những dục mà ngươi gọi, Là lạc thú cuộc đời. Ngày nay, dục lạc ấy. Với ta, không hấp dẫn.
235. Ở tất cả mọi nơi,
Hỷ lạc được đoạn tận, Khối tối tăm mù ám, Ðã bị làm tan nát, Hỡi này kẻ Ác ma, Ngươi hãy biết như vậy, Ngươi chính là Ác ma, Ngươi đã bị bại trận.
236. Mùa đông ta mang nước,
Luôn luôn xuống dòng nước, Ta sợ các hình phạt, Lời trách móc các bà.
237. Hỡi này Bà-la-môn,
Ngươi sợ hãi vì ai? Luôn luôn xuống dòng nước, Tay chân run cầm cập. Ngươi phải chịu cảm thọ, Rét lạnh quá độ vậy?
238. Và nàng có biết chăng
Hỡi này Punnikà? Sao nàng lại đến hỏi Vị làm các nghiệp lành, Vị đã chận đứng lại, Các nghiệp ác bất thiện.
239. Vị ấy già hay trẻ,
Làm các nghiệp ác độc, Người ấy nhờ rảy nước, Ðược giải thoát ác nghiệp.
240. Ai nói với ngươi vậy,
Kẻ ngu với kẻ ngu, Người tin nhờ rảy nước, Ðược giải thoát ác nghiệp.
241. Tất cả những ếch, rùa,
Sẽ được lên cõi trời, Cùng các rắn cá sấu, Và các thủy vậy khác.
242. Kẻ giết bò giết heo,
Kẻ đánh cá sanh thú, Các kẻ cướp giết người, Các người làm ác khác, Họ nhờ có rảy nước, Có thể thoát ác nghiệp.
243. Nếu những con sông này,
Có thể làm trôi mất, Ác nghiệp xưa ngươi làm, Chúng cũng làm trôi luôn, Các thiện nghiệp ngươi làm, Khiến ngươi thành rỗng không.
244. Phạm chí vì cái gì,
Ngươi sợ phải xuống nước, Cái ấy chớ có làm, Chớ để lạnh hại da.
245. Ta đi theo tà đạo,
Nàng hướng ta Thánh đạo, Thưa nàng ta cho nàng, Cái áo thấm nước này.
246. Ngươi giữ cái áo lại,
Ta không muốn cái áo! Nếu ngươi sợ đau khổ, Nếu ngươi không thích khổ.
247. Chớ làm các điều ác,
Công khai hay kín đáo, Nếu ngươi làm sẽ làm, Làm các điều ác nghiệp.
248. Ngươi không thoát đau khổ,
Dầu thấy đến, ngươi chạy, Nếu ngươi sợ đau khổ, Không ưa thích đau khổ.
249. Hãy đến quy y Phật,
Quy y Pháp và Tăng, Hãy chấp nhận Giới luật, Ngươi sẽ được lợi ích.
250. Ta đến quy y Phật,
Quy y Pháp và Tăng, Ta chấp nhận Giới luật, Ta sẽ được lợi ích,
251. Trước ta là bà con,
Với tộc họ Phạm thiên, Nay ta là Phạm chí, Chân thật là như vậy, Ta chứng ngộ Ba minh, Ðầy đủ trí Vệ-đà, An ổn đến với ta, Tâm tư được gột sạch.
252. Ðen như sắc con ong,
Tóc dài ta khéo uốn, Nay biến đổi vì già, Như vải gai, vỏ cây, Ðúng như lời giảng dạy, Của bậc nói sự thật.
253. Thơm như hộp ướp hương,
Ðầu ta đầy những hoa, Nay biến đổi vì già, Hôi như lông con thỏ, Ðúng như lời giảng dạy, Của bậc nói sự thật.
254. Như rừng khéo vun trồng,
Lược kim tu chói sáng, Nay biến đổi vì già, Tóc lơ thơ rơi rụng, Ðúng như lời giảng dạy, Của bậc nói sự thật
255. Trang điểm với bện tóc,
Sáng chói nữ trang vàng, Tóc mềm mại êm dịu, Thơm ngát với mùi hương, Nay biến đổi vì già, Rơi rụng đầu sói trọc, Ðúng như lời giảng dạy, Của bậc nói sự thật.
256. Trước lông mày của ta,
Chói sáng khéo tô vẽ, Nay biến đổi vì già, Nhăn nheo, rơi suy sụp, Ðúng như lời giảng dạy, Của bậc nói sự thật.
257. Mắt ta xanh và dài,
Sáng đẹp như châu báu, Nay biến đổi vì già, Hư hại không chói sáng, Ðúng như lời giảng dạy, Của bậc nói sự thật.
258. Lỗ mũi mềm và thon,
Sáng chói và trẻ măng, Nay biến đổi vì già, Héo khô và tàn tạ, Ðúng như lời giảng dạy, Của bậc nói sự thật.
259. Trước tai ta sáng chói,
Như vàng vòng khéo làm, Nay biến đổi vì già, Nhăn nhiu chảy xệ xuống, Ðúng như lời giảng dạy, Của bậc nói sự thật.
260. Trước răng ta sáng chói,
Như búp nụ chuối hoa, Nay biến đổi vì già, Bể gãy vàng như lúa, Ðúng như lời giảng dạy, Của bậc nói sự thật.
261. Ngọt là giọng nói ta,
Như chim cu hót rừng, Nay biến đổi vì già, Tiếng bể bị đứt đoạn, Ðúng như lời giảng dạy, Của bậc nói sự thật.
262. Trước cổ ta chói sáng,
Mềm đầy đặn nhu nhuyến, Nay biến đổi vì già, Nhiều ngấn và khô cằn, Ðúng như lời giảng dạy, Của bậc nói sự thật.
263. Trước cánh tay của ta,
Sáng như hai cột tròn, Nay biến đổi vì già, Như hoa kèn yết ớt, Ðúng như lời giảng dạy, Của bậc nói sự thật.
264. Trước bàn tay của ta,
Mềm mại như cành hoa, Sáng như nữ trang vàng, Nay biến đổi vì già, Như rễ cây khô cằn, Nhăn nhiu và thô nhám, Ðúng như lời giảng dạy, Của bậc nói sự thật.
265. Trước vú ta sáng chói,
Căng thẳng và tròn đầy, Nay biến đổi vì già, Trống rỗng treo lủng lẳng, Như da không có nước, Trống không, không căng tròn, Ðúng như lời giảng dạy, Của bậc nói sự thật.
266. Trước thân ta chói sáng,
Như giáp vàng đánh bóng, Nay biến đổi vì già, Ðầy vết nhăn nhỏ xíu, Ðúng như lời giảng dạy, Của bậc nói sự thật.
267. Trước bắp vế của ta,
Sáng chói như vòi voi, Nay biến đổi vì già, Giống như những ống tre, Ðúng như lời giảng dạy, Của bậc nói sự thật.
268. Trước ống chân của ta,
Mềm mại như vòng vàng, Nay biến đổi vì già, Chẳng khác gậy cây mè, Ðúng như lời giảng dạy, Của bậc nói sự thật.
269. Trước chân ta chói sáng,
Với lông mềm như bông, Nay biến đổi vì già, Nứt nẻ đầy đường nhăn, Ðúng như lời giảng dạy, Của bậc nói sự thật.
270. Thân này là như vậy,
Nay già chứa nhiều khổ, Ngôi nhà đã cũ kỹ, Vôi trét tường rơi xuống, Ðúng như lời giảng dạy, Của bậc nói sự thật.
271. Nàng chỉ cho ta thấy,
Ðây là một Sa-môn, Nàng thức ta tỉnh dậy, Ðây là một Sa-môn, Nàng khen tặng Sa-môn, Muốn thành nữ Sa-môn.
272. Nàng tìm cho Sa-môn
Rất nhiều đồ ăn uống, Này hỡi, Rô-hi-ni, Sao nàng quý Sa-môn?
273. Họ nhác không thích làm,
Sống với đồ người cho, Họ ham lợi thích ngọt, Sao nàng quý Sa-môn?
274. Cha thân đã lâu rồi,
Cha hỏi về Sa-môn, Con sẽ tán thán họ Tuệ giới hạnh tinh cần.
275. Họ thích làm không nhác,
Họ làm việc tối thắng, Họ trừ bỏ tham sân, Vì vậy con quý họ.
276. Ba cội gốc điều ác,
Họ quét sạch thanh tịnh, Mọi điều ác đoạn tận, Vì vậy con quý họ.
277. Thân nghiệp họ trong sạch,
Khẩu nghiệp họ cũng vậy, Ý nghiệp họ trong sạch, Do vậy con quý họ.
278. Không cấu uế giải thoát,
Như vỏ ốc trong sạch, Trong sạch cả bên trong, Trong sạch cả bên ngoài, Công đức họ trắng tinh, Do vậy con quý họ.
279. Nghe nhiều thọ trì pháp,
Mạng sống đúng Chánh pháp, Họ thuyết nghĩa thuyết pháp, Do vậy con quý họ.
280-281. Nghe nhiều thọ trì pháp,
Mạng sống đúng Chánh pháp, Nhứt tâm giữ chánh niệm, Lời sáng suốt khiêm nhường Họ chấm dứt đau khổ, Do vậy con quý họ.
282. Từ làng họ ra đi,
Không nhìn ngó vật gì, Họ đi không mong chờ, Do vậy con quý họ.
283. Không tìm cầu kho tàng,
Không kho chứa, kho cất, Họ tầm cầu cứu cánh, Do vậy con quý họ.
284. Họ không nắm giữ tiền,
Không nắm vàng, nắm bạc, Họ sống với hiện tại, Do vậy con quý họ.
285. Từ gia đình quốc độ,
Họ xuất gia khác nhau, Nhưng họ thương kính nhau, Do vậy con quý họ.
286. Hỡi này Rô-hi-ni,
Nàng sanh trong gia đình, Nàng đem lại hạnh phúc, Cho gia đình chúng tôi, Nàng tin Phật, Pháp, Tăng, Lòng tín kính sắc bén.
287. Nàng biết rõ cái này,
Là ruộng phước vô thượng, Chúng tôi cùng tín kính, Các vị Sa-môn này, Tế đàn thiết lập đây, Ðối với tôi rất lớn.
288. Nếu cha sợ đau khổ,
Nếu cha không thích khổ, Hãy quy y Phật-đà, Quy y Pháp và Tăng, Hãy chấp nhận giới đức, Cha sẽ được hạnh phúc.
289. Tôi quy y Phật-đà,
Quy y Pháp và Tăng, Tôi chấp nhận giới luật, Tôi sẽ được hạnh phúc.
290. Lúc trước ta chỉ là,
Bà con của Phạm thiên, Nay ta thật chính là, Một vị Bà-la-môn, Ta chứng đạt Ba minh, Ðược an toàn yên ổn, Ba Vệ-đà chứng ngộ, Ta tắm rửa thật sạch.
Ta chinh phục tất cả,
Mọi sự việc, Ta biết, Sống giữa vật không nhiễm, Ta từ bỏ tất cả, Mệnh chung, ác đoạn tận Kiến thâm sâu, Ta chứng, Ta chỉ ai cho ông, Ta không có Bổn Sư, Trên đời đứng một mình, Không ai sánh bằng Ta. Nay Ta đang đi đến, Thành phố Ba-la-nại, Ðể vận chuyển Pháp luân, Quay bánh xe Chánh pháp Thức tỉnh và hướng dẫn, Quần chúng đang mê muội, Ðánh tiếng trống bất tử, Rưới cam lồ giải thoát.
291. Ta trước tay cầm gậy,
Nay ta thành thợ săn, Sa lầy đầm khốn cùng, Ta không đến bờ kia.
292. Càpà chọc đứa con,
Mỉa mai ta say đắm, Chặt trói buộc Càpà, Ta nay đã xuất gia.
293. Chớ có tức giận em,
Hỡi bậc đại chiến thắng, Chớ có tức giận em, Hỡi bậc đại ẩn sĩ, Kẻ bị giận chi phối, Khổ hạnh khó thanh tịnh.
294. Ta sẽ rời Nàlà!
Ai ở lại Nàlà, Khi nếp sống đúng pháp, Tại đấy vị Sa-môn, Bị sắc đẹp nữ nhân, Trói buộc vào quyến rũ.
295. Hãy trở lui thưa chàng,
Chàng mắt đen của thiếp, Hãy hưởng thọ dục lạc, Như trước chàng đã hưởng, Thiếp xin phục tùng chàng, Lại còn bà con thiếp.
296. Này Càpà phần tư,
Ðiều nàng đã nói lên, Ðôi kẻ say mê nàng, Có thể thành lớn mạnh.
297. Chàng mắt đen của thiếp,
Thiếp chẳng đẹp hay sao, Như cây lựu nẩy mầm, Nở hoa trên đầu núi, Như giây leo giăng hoa, Hay như bông thổi kèn, Trong nội địa hoang đảo, Hãy nhìn sắc đẹp thiếp.
298. Ướp thơm với mùi hương,
Hương chiên đàn đỏ thắm, Thiếp mang lụa Kàsi, Lụa Kàsi tối thượng, Thiếp đẹp như thế này, Sao chàng bỏ rơi thiếp.
299. Như thợ săn bắt chim,
Muốn dùng mồi bắt chim, Dầu bủa giăng sắc đẹp, Nàng không trí ta được!
300. Còn quả con trai này,
Do chàng sanh ra thiếp, Chàng mắt đen của thiếp, Sao chàng lại từ bỏ, Ðứa con trai của thiếp, Ðứa con trai của chàng.
301. Bậc trí bỏ con trai,
Bỏ bà con, tài sản, Bậc đại hùng xuất gia, Như voi biết trói buộc.
302. Con trai này của chàng,
Nay thiếp dùng gậy dao, Ðánh ngã nó trên đất, Hãy tự cứu cho chàng, Vì sầu muộn đứa con, Chàng không thể bỏ đi.
303. Nếu nàng quăng con trai
Cho chó sói, loài chó, Kẻ sanh con trai ta, Không động lòng trắc ẩn, Nàng sẽ không làm được, Khiến ta trở lui lại.
304. Nay mong chàng tốt lành,
Chàng mắt đen của thiếp! Chàng sẽ đi đến đâu? Làng nào, thị trấn nào, Chàng đi thành phố nào? Chàng đi kinh đô nào?
305. Xưa đời sống chúng tôi,
Tổ chức thành đồ chúng! Không phải là Sa-môn, Chúng tôi tưởng Sa-môn! Chúng tôi sống bộ hành, Làng này qua làng khác, Sống trong những thành phố, Cũng như tại thủ đô.
306. Nay thật Thế Tôn này,
Dọc bờ sông Ni-liên, Ngài thuyết giảng Chánh pháp, Cho các loài hữu tình, Ðoạn tận mọi khổ đau, Ta nay đi đến Ngài, Ngài sẽ là Ðạo Sư, Ðạo Sư của chúng ta.
307. Nay chàng đi đảnh lễ,
Bậc Thế Tôn vô thượng! Ði hữu nhiễu quanh Ngài! Dâng Ngài lòng cung kính.
308. Càpà, như nàng nói!
Lợi ích cả hai ta! Nay ta thay mặt nàng, Lễ Thế Tôn vô thượng, Ði hữu nhiễu quanh Ngài, Ta dâng lòng cung kính.
309. Rời Kàla ra đi,
Dọc sông Ni-liên-thiền, Thấy bậc Chánh Ðẳng giác, Thuyết pháp đạo bất tử.
310. Thuyết khổ, khổ tập khởi!
Vượt qua sự dau khổ, Thuyết đường Thánh tám ngành, Ðưa đến khổ tịnh chỉ.
311. Ðảnh lễ chân Ngài xong,
Hữu nhiễu quanh Ngài xong, Trình lên lời ước nguyện, Của Càpà vợ chàng! Rồi chàng xin xuất gia, Sống đời không gia đình, Chứng đạt được Ba minh, Làm xong lời Phật dạy.
312. Hỡi nữ Bà-la-môn,
Những con nàng đã chết, Trong thời gian quá khứ, Thần chết ăn nghiến chúng, Cả ngày và cả đêm Khổ đau nung nấu nàng.
313. Nay có đến bảy con
Bị thần chết vồ lấy, Nhưng này Vàsitthi Chính vì lý do gì? Nàng không bị đau khổ, Não hại và nung nấu?
314. Nhiều trăm con trai ta
Hàng trăm chúng bà con, Ðã bị thần chết ăn, Của ta và của ngươi!
315. Ta biết đường giải thoát,
Khỏi sanh và khỏi chết, Ta không sầu, không khóc, Ta không bị nung nấu.
316. Hỡi nàng Vàsitthi
Vi diệu thay, lời người! Nàng biết pháp của ai, Nàng nói được như vậy?
317. Hỡi này, Bà-la-môn,
Bậc Chánh Ðẳng Giác này, Ở thành Mithìla, Ngài thuyết cho hữu tình, Chánh pháp thật vi diệu, Ðoạn tận mọi khổ đau!
318. Hỡi này Bà-la-môn,
Ta nghe La-hán ấy, Thuyết pháp không sanh y, Ở đây nhờ hiểu rõ Ta biết pháp vi diệu Sầu vì con quét sạch.
319. Con sẽ đi ngay đến
Thành phố Mithìla! Mong bậc Thế Tôn ấy, Giúp con thoát mọi khổ, Bà-la-môn thấy Phật, Bậc giải thoát mọi khổ.
320. Bà-la-môn thấy Phật,
Bậc giải thoát vô sanh Bậc Mâu-ni, vượt khổ Thuyết pháp cho vị ấy.
321. Thuyết khổ, khổ tập khởi,
Vượt qua sự đau khổ, Thuyết Thánh đạo tám ngành, Con đường lắng dịu khổ.
322. Ở đây, hiểu Diệu pháp,
Hoan hỷ chọn xuất gia, Sujàta ba đêm, Chứng đạt được Ba minh.
323. Hãy đi, người đánh xe,
Ðánh xe này về nhà, Chức nữ Bà-la-môn, Ðược sức khỏe, không bệnh, Và nói vị Phạm chí Nay đã xuất gia rồi, Sujàta ba đêm, Chứng đạt được Ba minh.
324. Người đánh xe lấy xe,
Cùng với ngàn đồng tiền, Chức nữ Bà-la-môn, Ðược sức khỏe, không bệnh Và nói vị Phạm chí, Nay đã xuất gia rồi, Sujàta ba đêm Chứng đạt được Ba minh.
325. Hỡi này người đánh xe,
Xe ngựa, ngàn tiền này, Khi nghe vị Phạm chí Ðã đạt được Ba minh, Ta cho người đầy bát Cả xe và ngàn tiền.
326. Hỡi nữ Bà-la-môn!
Hãy giữ lại cho người, Xe ngựa và ngàn tiền, Tôi sẽ đi xuất gia, Sống thân cận gần gũi Bậc trí tuệ tối thắng.
327. Voi, trâu bò và ngựa,
Châu báu và vòng vàng, Những gì làm gia tài, Trở nên giàu có này, Cha con đã xuất gia, Ðã bỏ lại tất cả.... Này con Sundarì, Con thừa tự gia đình, Hãy thọ hưởng tài sản, Của đại gia đình này,
328. Voi, trâu bò và ngựa,
Châu báu và vòng vàng, Những gì làm gia tài, Trở nên cám dỗ nàng; Sầu khổ vì đứa con, Cha con đã xuất gia, Ðã từ bỏ tất cả Gia sản sự nghiệp này, Con nay sẽ xuất gia, Sầu khổ vì anh con
329. Hỡi này Sundarì
Nếu đấy ước nguyện con, Mong rằng tâm tư ấy, Ðược thành tựu viên mãn; Nuôi sống bằng đồ ăn, Tích lũy nhờ khất thực, Y áo được tác thành, Với miếng vải lượm lặt, Những nếp sống như vậy, Ðược thành tựu viên mãn, Khiến lậu hoặc đoạn tận, Trong thế giới đời sau.
330. Kính thưa Trưởng lão Ni,
Con đã học, tu tập, Thiên nhãn được thanh tịnh, Con biết các đời trước, Tại chỗ con được sống, Trước kia như thế nào.
331. Nhờ Ni sư, con được
Ôi, bạn lành của con! Bậc sáng chói tốt đẹp, Trong chúng Trưởng lão Ni! Ba minh đã chứng đạt, Lời Phật dạy, làm xong.
332. Ni sư hãy cho phép
Con đi đến Xá Vệ! Con sẽ rống vang lên, Tiếng rống con sư tử! Trước mặt bậc Giác ngộ, Phật-đà, bậc tối thượng.
333. Hỡi này Sundarì,
Nàng thấy bậc Ðạo Sư, Màu da, sắc màu vàng, Như vàng ròng sáng chói! Bậc Chánh Ðẳng, Chánh giác, Không điều gì sợ hãi, Bậc đã điều phục được, Kẻ chưa được điều phục.
334. Ðang đi đến trước Ngài,
Ngài thấy Sundarì! Ly tham không hệ lụy, Giải thoát, không sanh y, Ðã làm việc phải làm, Không còn các lậu hoặc.
335. Từ thành Ba-la-nại!
Con đã bước ra đi! Con đến bậc Ðại hùng. Con là Sundarì, Con chính đệ tử Ngài! Con đảnh lễ chân Ngài.
336. Ngài là bậc Giác ngộ!
Ngài là bậc Ðạo Sư! Con là con gái Ngài Ôi bậc Bà-la-môn! Con sanh từ miệng Ngài! Ðã làm việc phải làm, Không còn có lậu hoặc, Con là Sundarì
337. Hiền nữ, Ta mừng con
Ðường còn lại, không xa! Như vậy, bậc Tự điều, Ðảnh lễ chân Ðạo Sư! Bậc ly tham, ly hệ, Không hệ lụy trói buộc, Ðã làm việc phải làm, Không còn các lậu hoặc.
338. Ta trước mặc áo trắng,
Ðược nghe giảng Chánh pháp, Do ta không phóng dật, Chứng tri được chân lý.
339. Nhờ vậy đối mọi dục,
Không còn tham muốn lớn, Thấy sợ hãi thân kiến, Ta mong muốn viễn ly.
340. Ta bỏ chúng bà con,
Bỏ lao công, nô tỳ, Làng ruộng đất phì nhiêu, Khiến người thích hân hoan, Từ bỏ, ta xuất gia, Gia sản đâu có ít.
341. Nhờ diệu pháp khéo thuyết,
Ra đi, với lòng tin, Ta không thể hy cầu Vật gì thuận gia sản Vàng bạc ta đã bỏ, Sao lại đi đến chúng?
342. Vàng bạc không giác ngộ,
Không làm người an tịnh, Không hợp hạnh Sa-môn, Không phải tài sản thánh.
343. Chính vàng hay bạc này
Làm tham ái, đắm say, Làm con người ngu si, Làm tăng trưởng bụi trần, Nguy hiểm nhiều ưu não, Ðây, không gì trường cửu.
344. Ðây, loài Người tham đắm,
Phóng dật, tâm uế nhiễm, Chống đối thù địch nhau Rộng đường đấu tranh nhau.
345. Giết hại, trói, tra tấn,
Hao tài sầu, ưu tư Những ai chìm trong dục, Gặp phải nhiều tai họa.
346. Vì sao bà con ta
Giống như kẻ thù ta, Lại trói buộc ta vào, Trong vòng các dục lạc, Hãy biết ta xuất gia, Vì thấy dục đáng sợ.
347. Bạc, vàng không có thể
Ðoạn được các lậu hoặc, Các dục là thù địch, Sát nhân, chuyên giết hại, Chúng là kẻ oán thù, Là mũi tên, dây trói.
348. Vì sao bà con ta
Giống như kẻ thù ta, Lại trói buộc ta vào Trong vòng các dục lạc, Hãy biết ta xuất gia, Cạo tóc đắp đại y.
349. Nuôi sống bằng đồ ăn,
Tích lũy nhờ khất thực, Y áo được tác thành Với miếng vải lượm lặt Sống vậy, thích hợp ta, Cơ bản, sống không nhà.
350. Dục đại sĩ từ bỏ
Dục loài Trời, loài Người, Trú an ổn, giải thoát Không dao động an lạc.
351. Chớ để ta đến dục,
Trong dục, không an toàn, Dục, thù địch sát nhân Gây khổ, dụ đống lửa.
352. Ðường hiểm, đầy sợ hãi,
Ðầy khổ hoạn, gai góc, Tham ái đường gập ghềnh, Hoang si mê rộng lớn.
353. Tai họa đầy hãi hùng,
Các dục dụ đầu rắn, Kẻ ngu thích thú dục, Kẻ mù lòa phàm phu.
354. Chúng sanh chìm bùn đục,
Những kẻ không thấy đời, Họ không có rõ biết, Sự chấm dứt sanh tử.
355. Loài Người vì nhân dục,
Con đường đến ác thú, Phần nhiều đi đường ấy, Khiến tự ngã bệnh hoạn.
356. Như vậy dục sanh thù,
Nung nấu, làm uế nhiễm, Dục thuộc về thể vật, Trói người vào tử vong.
357. Dục làm cho diên cuồng,
Loạn ngôn tâm thác loạn, Làm uế nhiễm chúng sanh, Sắp rơi bẫy Ác ma.
358. Dục nguy hiểm không cùng,
Nhiều khổ, thuốc độc lớn, Ngọt ít, tạo đấu tranh, Héo tàn ngày tươi sáng.
359. Ta quyết định như vậy,
Không trở lui dục nhân, Tác thành điều bất hạnh, Luôn vui hưởng Niết-bàn.
360. Quyết đấu tranh với dục,
Chờ đợi, mát, lắng dịu, Sẽ sống không phóng dật, Ðoạn diệt kiết sử dục.
361. Ta đi theo đường ấy
Ðường đại sĩ đi qua, Không sầu, không cấu uế, An ổn, thẳng, Tám ngành.
362. Hãy xem Subhà này,
An trú trên Chánh pháp, Con gái một thợ vàng, Ðạt được không tham dục, Ngồi hành trì thiền định, Ở dưới một gốc cây.
363. Hôm nay, ngày mồng tám
Từ khi nàng xuất gia, Với lòng đầy tin tưởng, Sáng chói chân Diệu pháp, Up-pa-la-van-na, Huấn luyện giảng dạy nàng, Nàng chứng được Ba minh, Vượt qua được thần chết.
364. Nàng tự mình giải thoát,
Không còn có nợ nần. Là vị Tỷ-kheo-ni, Các căn được tu tập, Ly hệ mọi khổ ách, Việc cần làm làm xong, Ðối với các lậu hoặc, Nàng đoạn diệt hoàn toàn.
365. Sakka đến với nàng,
Cùng với chúng chư Thiên, Với thần thông diệu dụng, Chúng đảnh lễ Subhà, Nàng chỉ là con gái, Con một người thợ vàng, Nhưng nay là hội chủ, Của mọi loài chúng sanh.
366. Trong rừng xoài tươi đẹp,
Của ông Jivaka, Tỷ-kheo-ni Subhà, Ðang bộ hành đi tới, Có chàng trẻ ăn chơi Ngăn chặn Subhà lại Nàng nói lên người ấy Những lời nói như sau.
367. Ta đã xúc phạm gì,
Ðể chàng đứng chận tôi? Thật là không xứng đáng Ðể một người đàn ông Xúc phạm nữ xuất gia, Hỡi Hiền giả, hiểu cho.
368. Bậc Tôn sư ta dạy,
Chính học pháp như vậy, Ðược bậc Thiện Thệ thuyết, Là con đường thanh tịnh, Không có cấu uế nào. Sao chàng đứng chận ta.
369. Tâm ta thật thanh tịnh,
Tâm người không thanh tịnh, Tâm người đầy tham ái, Ta không tham, không uế, Mọi nơi, ý giải thoát Sao chàng đứng chận ta?
370. Nàng trẻ, không ác pháp,
Nàng xuất gia làm gì? Hãy bỏ áo Cà sa! Ðến, lạc hưởng rừng hoa.
371. Toàn hoa tỏa hương ngạt,
Cây rưới bụi muôn hoa, Xem tuổi xuân tuổi trẻ, Là thời tiết hạnh phúc, Hãy đến thọ hưởng lạc Trong rừng nở trăm hoa.
372. Con đường dưới vòm hoa,
Xào xạc gió lay động, Nàng được lạc thú gì, Khi một mình vào rừng.
373. Trú xứ chúng thú dữ,
Vang tiếng voi rống dục, Rừng lớn trống không người, Nhiều hiện tượng hãi hùng, Nàng lại muốn đi vào, Không một ai bạn đường?
374. Như búp bê vàng chói,
Giống tiên nữ vườn trời, Nàng đắp vải Kàsi, Ðẹp mịn, sáng chói nàng.
375. Ta sống nô lệ nàng,
Nếu nàng sống ở rừng, Không một sanh loại nào, Mà ta yêu hơn nàng, Hỡi nàng mắt dịu hiền, Như mắt Kin-na-rì.
376. Nếu nàng theo lời ta,
Nàng sẽ được hạnh phúc, Hạnh phúc sống gia đình, Sống lâu đài che gió, Sống có các nữ nhân, Hầu hạ phục vụ nàng.
377. Mang lụa mịn Kàsi,
Dùng vòng hoa, sáp đỏ, Ta làm nhiều trang sức, Vàng châu báu ngọc ngà.
378. Nàng leo lên giường quý,
Gỗ chiên đàn, lỏi thơm, Che màn đẹp tinh sạch, Trải nệm mới lông dài.
379. Như sen vươn từ nước,
Phục vụ cho phi nhân, Như vậy nàng Phạm hạnh, Sống toàn hảo đến già.
380. Ở đây là cái gì,
Chàng xem là tuyệt diệu, Trong nghĩa địa ứ đầy, Tràn đầy những thân xác, Chàng được thấy cái gì, Trong thân xác hủy hoại, Khi chàng thốt ra lời, Si mê, vô ý thức?
381. Chính mắt như sơn dương,
Như Kinri giữa rừng, Ta thấy con mắt nàng, Dục lạc liền tăng trưởng.
382. Trong gương mặt không uế,
Sáng chói như vàng ròng, Chẳng khác gì hoa sen, Ðặt chính giữa đài sen, Thấy con mắt của nàng, Lòng dục liền tăng trưởng.
383. Tuy xa ta vẫn nhớ,
Lông mi dài tuyệt đẹp, Không gì ta yêu hơn, Mắt Kinri của nàng.
384. Chàng muốn dùng phi đạo,
Tìm mặt trăng mà chơi, Muốn nhảy qua Mê-ru, Muốn tìm đến con Phật.
385. Trên đời này, cõi trời,
Ta nay không tham ái. Ta không biết người ấy, Người ấy như thế nào, Ðường đạo đã giết sạch, Giết hại tận gốc rễ.
386. Quăng đi như hố than,
Than hừng đang cháy đỏ, Ðánh giá như thuốc độc, Ðang xâm nhập đến thân, Ta không biết người ấy, Người ấy như thế nào, Ðường đạo đã giết sạch, Giết hại đến gốc rễ.
387. Hãy cám dỗ nữ nhân,
Không có biết quán sát, Hay Ðạo Sư người ấy, Ðang còn phải học tập, Chàng mê hoặc người ấy, Làm hại được người ấy.
388. Còn ta đã chánh niệm,
Ðối khen chê lạc khổ, Biết hữu vi bất tịnh, Bám chặt tư tưởng ấy.
389. Ta là đệ tử Ni,
Của bậc đại Thiện Thệ, Ta đã dấn thân bước Trên đường đạo tám ngành, Mũi tên đã nhổ lên Không còn các lậu hoặc, Ta đi đến nhà trống, Tâm tư ta hoan hỷ.
390. Ta đã được thấy nó,
Một búp bê khéo vẽ, Với trục quay gỗ mới, Khéo cột với dây que, Búp bê ấy nhảy múa, Nhiều điệu múa khác nhau.
391. Dây que ấy được rút,
Mở lòng rời phân tán, Thành trống không, miếng nhỏ, Chỗ nào ý say đắm.
392. Thân ta ví dụ vậy,
Không bộ phận không động. Không bộ phận, không động. Chỗ này ý say đắm.
393. Như thấy một bức vẽ,
Tô màu đỏ trên tường, Cái thấy chàng đảo lộn, Vì trí người thiếu sót.
394. ảo thuật xem tối thượng,
Như cây vàng trong mộng, Mù lòa ngươi chạy theo, Cái trống không, không thực, Như cái trò múa rối, Ðược xem giữa quần chúng.
395. Mắt nàng như hòn bi,
Ðặt lỗ trống của cây, Như những bong bóng nước, Ðầy dẫy những nước mát, Những con người đa dạng, Sanh ra những mủ ghèn.
396. Thiếu nữ đẹp tuyệt ấy,
Với tâm không chấp trước, Bóc một con mắt nàng. Trao liền cho người ấy, Và nói hãy cầm lấy, Con mắt này của người.
397. Khi ấy tham liền diệt,
Chàng khẩn cầu xin lỗi, Mong rằng Phạm hạnh ni, Ðược an ổn trở lại, Tôi sẽ không còn dám, Xâm phạm thế này nữa.
398. Hai hạng người thế này,
Chẳng khác ôm lửa hừng, Tôi như nắm rắn độc, Mong an ổn tha thứ.
399. Thoát khỏi bị xúc phạm,
Vị Tỷ-kheo-ni ấy, Từ đấy đi đến gần Bậc Giác ngộ thù thắng, Thấy được tướng công đức, Tốt đẹp và thù thắng, Mắt của nàng hồi phục, Ðược trở lại như xưa.
400. Trong thành được đặt tên,
Tên chỉ một đóa hoa, 'Pàtaliputta', "Con của đóa bông kèn", Sống hai Tỷ-kheo-ni, Có giới hạnh tốt đẹp, Thuộc gia đình Thích-ca, Gia đình cao quyền quý.
401. Một I-xi-đa-xi,
Thứ hai tên Bô-dhi, Cả hai có giới hạnh, Ưa thích tu thiền định, Ðược nghe kinh điển nhiều, Kiết sử được trừ bỏ.
402. Họ đi khất thực xong,
Ăn xong, bát rửa sạch, Ngồi hưởng lạc viễn ly, Nói lên những lời này.
403. Hỡi I-xi-đa-xi,
Căn nàng thật thoải mái, Tuổi thọ chưa tổn giảm; Nàng thấy khuyết điểm gì, Khiến tâm chú trọng nhiều, Ðến hạnh nguyện xuất ly.
404. Như vậy sống viễn ly,
Thiện xảo về thuyết pháp, I-xi-da-xi thuyết, Lời nói như thế này, Hãy nghe, này Bô-đi, Ta xuất gia thế nào.
405. Tại thành phố thù thắng
Ðặt tên Uj-jê-ni, Cha ta là triệu phú Có đức độ giới hạnh, Ta là con gái một, Ðược cha thương, yêu quý.
406. Từ thành Xê-kê-ta,
Một người dạm hỏi đến, Một gia đình quyền quý, Hỏi ta cho con trai Triệu phú bèn gả ta, Làm dâu người giàu ấy.
407. Sáng và chiều, ta đến
Ðảnh lễ cha, mẹ chồng, Cúi đầu đảnh lễ chân, Như ta được dạy bảo.
408. Với chị, với em anh,
Với bà con chồng ta, Thấy một người bước vào, Ta e sợ mời ngồi.
409. Về đồ ăn, uống, nhai,
Ðược cất giữ có chỗ, Ta thiết đãi cho ăn, Thích hợp từng người một.
410. Ta thức dậy đúng thời,
Ði vòng quanh khắp nhà, Rồi chà rửa chân tay, Ta đến lễ chồng ta.
411. Cầm theo lược trang liệu
Thuốc xoa mắt gương nhỏ, Ta trang điểm chồng ta, Như thị tỳ hầu hạ.
412. Ta tự nấu dọn cơm,
Ta tự rửa chén bát, Như mẹ đối với con, Ta hầu chồng như vậy.
413. Như vậy phục vụ chồng,
Với phục vụ tối thượng Dậy sớm không biếng nhác, Với tâm tư khiêm tốn, Với giới hạnh tốt đẹp, Nhưng chồng ác cảm ta.
414. Chồng ta nói mẹ cha,
Xin phép con sẽ đi, Với I-xi-đa-xi, Con không thể sống chung, Cùng dưới một mái nhà, Con không thể cùng ở.
415. Chớ nói vậy, này con!
Vợ con người có trí, Thông minh, biết dậy sớm, Sao con không hoan hỷ.
416. Nàng không hại gì con,
Nhưng con không bao giờ Có thể sống chung được Với I-xi-đa-xi Con ghét cay chán ngấy Xin phép, con sẽ đi.
417. Ðược nghe lời chồng nói,
Cha mẹ chồng hỏi con. Làm gì xúc phạm chồng? Hãy thẳng thắn nói thật.
418. Con không xúc phạm gì!
Không hại, không mưu tính. Với lời nói khó chịu, Có thể làm gì được? Tuy vậy chồng của con, Lợi ác cảm chống con.
419. Họ đưa ta về nhà,
Nhà thân phụ của ta, Với tâm tư khổ não, Sửng sốt và bối rối Không muốn mất con trai, Họ muốn bảo vệ nó. Ôi, chúng ta bại trận, Bởi nữ thần may rủi.
420. Cha ta lại gả ta,
Cho gia đình thứ hai, Một gia đình giàu có, Bằng lòng nửa số tiền Là tiền gả bán ta.
421. Ta chỉ sống một tháng,
Trong gia đình vị ấy, Vị ấy trả lui ta, Dầu ta tận tụy làm, Chẳng khác người nô lệ, Không lỗi lầm có đức.
422. Cha ta nói khất sĩ,
Sống điều phục chế ngự, Ngươi hãy làm rể ta, Bỏ áo rách ghè bình.
423. Vị ấy sống nửa tháng,
Rồi nói với cha ta, Hãy trả lui áo rách, Ghè bình và bình bát, Con nay muốn sống lại, Nghề khất sĩ của con.
424. Cha, mẹ, toàn bà con,
Liền nói với vị ấy: Ở đây có cái gì, Làm con không bằng lòng? Hãy nói gấp cái gì, Làm con không vừa ý.
425. Ðược nói vậy, vị ấy,
Liền trả lời như sau: Nếu đối với tự ngã, Con có thể bằng lòng, Nhưng con không chung sống, Với I-xi-đa-xi!
426. Từ giã vị ấy đi,
Một mình, ta suy nghĩ: Ta đến để xin phép, Hoặc chết hay xuất gia.
427. Rồi Ji-na-đat-ta.
Vị ni sư ấy đến, Trong khi đi khất thực, Ðến gia đình cha ta, Vị thọ trì giới luật, Nghe nhiều, có giới hạnh.
428. Thấy Ni sư, chúng tôi,
Ðều đứng lên kính cẩn, Và ta liền sửa soạn, Chỗ ngồi cho Ni sư, Ngồi xuống, ta đảnh lễ, Dưới chân bậc Ni sư, Lễ xong, ta cúng dường, Các đồ ăn đồ uống.
429. Các món ăn, uống, nhai,
Tại đấy, được dự trữ, Làm Ni sư thỏa mãn, Ta thưa với Ni sư, Nay ta muốn xuất gia, Sống đời không gia đình, Cha ta nói với ta: "Này con hãy ở đây".
430. Hành trì đúng Chánh pháp,
Với đồ ăn đồ uống, Hãy làm cho thỏa mãn, Sa-môn, hai lần sanh.
431. Vừa nói, ta khóc lóc,
Chấp tay vái cha ta; Với điều ác con làm, Con sễ tiêu nghiệp ấy.
432. Cha ta nói với ta:
Hãy chứng ngộ Bồ-đề. Và Chánh pháp tối thượng! Hãy chứng đắc Niết-bàn, Ðã được Lưỡng Túc Tôn, Thành tựu và chứng đạt.
433. Ta đảnh lễ mẹ cha,
Cùng tất cả bà con, Sau bảy ngày xuất gia, Ta chứng được Ba minh.
434. Ta biết bảy đời trước,
Quả gì nay thành thục, Ta sẽ nói cho bạn, Hãy nhất trí lắng nghe.
435. Tại thành phố đặt tên,
Ê-ra-ka-kac-chê, Ta sống là thợ vàng, Tài sản thật phong phú.
436. Say đắm với tuổi trẻ,
Ta xâm phạm vợ người, Do vậy, sau khi chết, Trong cảnh giới địa ngục, Ta bị đốt, nung nấu Trong một thời gian dài, Thoát khỏi sự nung đốt Ta sanh trong bụng khỉ.
437. Bảy ngày từ khi sanh,
Ta bị khỉ chúa thiến, Ðây là quả của nghiệp, Do đi đến vợ người.
438. Từ đây ta chết đi,
Mệnh chung rừng Xin-đa, Sanh trong bụng con dê, Một mắt và què quặt.
439. Mười hai năm bị thiến,
Mang nặng những đứa con, Sán trùng ăn vô dụng, Do đi đến vợ người.
440. Từ đấy ta chết đi,
Sanh làm con bò cái, Của một lái buôn bò, Con nghé màu đỏ sẫm, Khi được mười hai tháng. Lại bị người ta thiến.
441. Rồi ta lại kéo cày,
Kéo xe cho chúng nó, Mù, lo lắng, vô dụng, Do đi lại vợ người.
442. Từ đấy chết được sanh,
Nhà nữ tỳ gần đường, Không là nữ không nam, Do đi lại vợ người.
443. Ðến tuổi ba mươi năm,
Bị chết, ta được sanh Sanh làm người con gái, Gia đình người đánh xe, Nghèo khổ ít tài sản, Rơi vào tay vay lãi, Do tiền nợ tăng trưởng, Chủ lữ đoàn bắt ta.
444. Kéo ta, dầu ta khóc,
Lôi ta ra khỏi nhà.
445. Khi ta mười sáu tuổi,
Lớn lên thành thiếu nữ, Con trai thương gia ấy, Bắt ta lấy làmvợ.
446. Nhưng nó có vợ khác,
Có giới đức danh xưng, Lại biết thương mến chồng, Chính ta tạo thù hằn.
447. Do quả của nghiệp này,
Họ khinh ghét chống ta, Dầu ta như nô tỳ, Hầu hạ phục vụ họ, Nhưng nay ta chấm dứt, Mọi sự việc như trên.
448. Con gái vua Konca,
Với hoàng hậu chánh ngôi, Tại Matavatì, Ðược sanh Sumedha, Hân hoan gắng thực hành, Lời dạy bậc Ðạo Sư.
449. Giới hạnh thuyết giảng khéo,
Nghe nhiều khéo huấn luyện, Theo lời Đức Phật dạy, Nàng đến cha mẹ nàng, Nói rằng: "Thưa mẹ cha, Cả hai, hãy nghe con!".
450. Con hân hoan Niết-bàn,
Dầu sanh hữu Chư Thiên, Sanh hữu ấy vô thường, Giá trị gì các dục, Trống không, vị ngọt ít, Còn tàn hại thời nhiều.
451. Các dục thật cay đắng,
Ví như nọc rắn độc, Kẻ ngu mới tham đắm, Trong các loại dục ấy. Những ai thọ hưởng dục, Trong một thời gian dài, Bị khổ đau địa ngục, Hành hạ và tàn hại.
452. Những kẻ làm nghiệp ác,
Những kẻ tâm trí ác, Bị đau đớn sầu khổ, Trong cảnh giới đọa xứ. Kẻ ngu thường không nhiếp, Chế ngự thân, khẩu, ý.
453. Kẻ ngu có liệt tuệ,
Không tư duy quyết định, Không ngăn chặn khổ tập, Khi có thời thuyết pháp, Không biết lo học hỏi, Không giác tri Thánh đế.
454. Những sự thật, thưa mẹ,
Phật thù thắng thuyết giảng, Phần lớn chúng quần sanh, Không hiểu sự thật ấy; Họ hoan hỷ tái sanh, Ước muốn sanh thiên giới.
455. Sanh thiên không thường trú,
Sanh hữu là vô thường, Kẻ ngu không sợ hãi, Luôn luôn phải tái sanh.
456. Bị sanh bốn đọa xứ,
Ðược sanh Thiên, Nhân giới Ðược chúng khó khăn thay, Những ai rơi đọa xứ, Trong cảnh giới địa ngục, Không có sự xuất gia.
457. Mong cả hai cha mẹ,
Cho con được xuất gia, Trong giáo pháp thuyết giảng, Của bậc chứng Mười lực, Sống thong dong nhàn hạ, Nỗ lực đoạn sanh tử.
458. Sao con ưa tái sanh,
Với thân tội lỗi này, Thân trống rỗng, không lõi, Vì mục đích đoạn diệt, Tham ái được tái sanh, Xin cho con xuất gia.
459. Nay thời, Phật ra đời,
Phi thời đã từ bỏ, Thời cơ nay đã đến, Cho đến trọn đời con, Con không làm tổn thương, Giới luật và Phạm hạnh.
460. Sumedha nói vậy,
Nàng lại thưa mẹ cha. Con nguyện không ăn uống, Khi còn là cư sĩ, Ở đây con sẵn sàng, Chờ chết đến với con.
461. Mẹ sầu khổ, khóc than!
Cha hoàn toàn sửng sốt, Họ gắng thuyết phục ta, Nằm dưới đất lâu dài.
462. Này con hãy đứng dậy!
Có gì là sầu khổ, Khi con được cả nước, Varanavati, Anikarata, Ðẹp trai, xứng đôi con.
463. Con sẽ là hoàng hậu,
Vợ chính Anika! Này con, thật khó thay! Ðời sống vị xuất gia, Giữ gìn các giới luật, Sống đời sống Phạm hạnh.
464. Uy lực của vị vua,
Tiền của và quyền thế, Sản nghiệp và hạnh phúc, Với tuổi trẻ thanh xuân! Hãy thọ hưởng dục lạc, Hãy nhận lời lấy chồng.
465. Sumedha thưa rằng:
Thôi đừng, sự việc ấy, Họ đi đến tái sanh, Họ trống không, không lõi, Hoặc xuất gia, hoặc chết, Con chỉ cưới như vậy.
466. Sá gì thân hôi nhớp,
Phát mùi, gây sợ hãi, Bao da đựng xác chết, Rỉ chảy đồ bất tịnh.
467. Sá gì thân ta biết,
Ghê tởm, lấm máu thịt, Chỗ chứa đựng loài sâu, Mồi ăn cho chim chóc, Thân xác này là vậy, Nay đem đến cho ai?
468. Thân thể bỏ nghĩa địa,
Không lâu, mất thức tri, Như khúc gỗ quăng bỏ, Bà con đều ghê tởm.
469. Thân ấy quăng nghĩa địa,
Làm mồi ăn kẻ khác, Trước chúng tắm rửa sạch, Nay chúng sinh ghê tởm, Cha mẹ còn như vậy, Nói gì chung quần chúng.
470. Họ mê thân không lõi,
Ràng buộc bởi gân xương, Ðầy nước miếng, nước mắt, Ðầy phân tiểu hôi hám.
471. Nếu thân được mổ xẻ,
Lội nội phần ra ngoài, Chính mẹ phải ghê tởm, Không chịu nổi mùi hôi.
472. Chính do uẩn, xứ, giới,
Tác thành các thân này, Gốc tái sanh, đau khổ; Họ như lý nói lên, Hoàn toàn không vui thích. Vậy ai, tôi muốn cưới?
473. Từng ngày trăm ngọn giáo,
Luôn luôn mới đâm thân, Dầu bị hại trăm năm, Như vậy còn tốt hơn, Vì khổ ấy cuối cùng, Rồi cũng được tiêu diệt.
474. Kẻ trí quyết bằng lòng
Sự giết hại như trên, Bậc Ðạo Sư dạy rằng: Họ luân hồi dài dà, Với tâm tư giết hại, Liên tục nối tiếp nhau.
475. Trong cảnh giới Trời, Người,
Bàng sanh, a-tu-la, Ngạ quỷ và Ðịa ngục, Chịu giết hại vô lượng.
476. Trong địa ngục, rất nhiều,
Kẻ tâm uế, đọa lạc, Chỗ trú ẩn Thiên giới, Không có lạc Niết-bàn.
477. Những ai đạt Niết-bàn,
Họ liên hệ mật thiết, Với những lời thuyết dạy, Của bậc đủ Mười lực, Thong dong không rộn ràng, Nỗ lực đoạn sanh tử.
478. Thưa cha ngày hôm nay
Con quyết tâm ra đi, Những tài sản rỗng không, Không có giá trị gì, Con ghê tởm các dục, Con chán ngấy các dục, Họ đã được tách thành, Như thân cây Ta-la.
479. Nàng trả lời phụ thân,
Với lời nói như vậy. Anikaratta Ðược hứa gả công chúa, Ði đến gần xin cưới, Theo như giờ hẹn định.
480. Mái tóc đen, dày mịn,
Với gươm, nàng cắt ngang, Cửa lầu được đóng lại, Nàng chứng được Sơ thiền.
481. Nàng sống trong cảnh thiền,
A-ni-ka đến thành, Sumedha trong cung, Tu tập tưởng vô thường.
482. Trong khi nàng tác ý,
Vua bước lên tam cấp, Trang sức vàng châu báu, Chấp tay cầu xin nàng.
483. Hãy trị vì quốc độ,
Với tiền của uy quyền, Với tài sản, hạnh phúc, Với tuổi trẻ thanh xuân, Hãy thọ hưởng các dục, Thật khó kiếm ở đời.
484. Ta giao nàng vương quốc,
Hưởng tài sản, bố thí, Nàng chớ có buồn nản, Khiến mẹ cha khổ đau. Sumedha trả lời, Với vua, từng vấn đề; Ðối với nàng, các dục, Không cầu không si mê, Chớ hoan hỷ các dục, Hãy thấy dục nguy hiểm.
485. Mandhatà là vua,
Chúa bốn châu hưởng dục, Dục lạc ấy tối thượng, Tưy vậy khi vua chết, Cũng chưa được thỏa mãn, Ước vọng chưa đầy đủ.
486. Dầu có mười bảy báu,
Khắp mười phương đầy tràn, Không có dục thỏa mãn, Người chết, chưa thỏa mãn.
487. Các dục ví gươm giáo,
Các dục ví đầu rắn, Ví như bó đuốc cháy Giống xương gậm trơn tru.
488. Các dục không thường còn,
Cũng không có thường hằng, Khổ nhiều, thuốc độc lớn, Như hòn đạn cháy đỏ, Nguồn gốc của bất hạnh, Kết quả là đau khổ.
489. Dục như trái của cây,
Như miếng thịt, khổ lụy, Giống như mộng như huyễn, Dục như của vay mượn.
490. Dục như gươm, như cọc,
Bệnh tật và cục bướu, Bất hạnh và dao động, Ví như hố than hừng, Nguồn gốc của bất hạnh, Sợ hãi và tàn sát.
491. Như vậy, dục nhiều khổ,
Ðược gọi chứng ngại pháp, Hãy đi, từ bỏ tôi, Khi tôi còn tái sanh, Thời đối với tự ngã, Tôi không có lòng tin.
492. Ai giúp gì tôi được,
Khi đầu tôi đang cháy, Khi già chết bám sát, Tôi cần phải nỗ lực, Ðối với tàn hại ấy!
493. Không đi đến gần cửa,
Nàng thấy mẹ và cha, Và vua Anika, Ngồi dưới đất khóc than, Thấy vậy nàng tỏ lời, Thưa mọi người như sau:
494. Kẻ ngu, đã lâu rồi,
Khóc luân hồi nói tiếp, Từ vô thỉ đến nay, Khóc phải bị mệnh chung, Khóc anh em bị giết, Khóc tự mình bị giết.
495. Hãy nhớ từ vô thỉ,
Nước mắt, sữa và máu, Tuôn chảy theo luân hồi, Không bao giờ dừng nghỉ, Hãy nhớ các chúng sanh, Luân hồi xương chất đống.
496. Hãy nhớ tràn bốn biển,
Ðầy nước mắt, sữa, máu, Hãy nhớ xương một kiếp, Cao bằng Vi-pu-la.
497. Hãy nhớ từ vô thỉ,
Không đủ để làm thành, Cả đất nước Diêm Phù, Những nấm mồ hột táo, Của mẹ cha luân hồi.
498. Hãy nhớ từ vô thỉ,
Những cỏ cây cành lá, Không đủ để chứa đựng, Những ghè bốn ngón tay, Chứa người cha, luân hồi.
499. Hãy nhớ tới hình ảnh,
Con rùa mù biển đông, Cho đầu nó lọt vào, Lỗ hổng khúc cây trôi, Ðể nói lên ví dụ, Ðược làm người khó vậy.
500. Hãy nhớ thân sắc người,
Ðược ví bong bóng nước, Ðầy cả những bất hạnh, Trống không không có lõi, Hãy thấy uẩn vô thường! Nhớ địa ngục nhiều họa.
501. Hãy nhớ nghĩa địa lớn,
Nhờ tái sanh tiếp tục, Nhờ sợ hãi thuồng luồng, Hãy nhớ Bốn sự thật.
502. Nước bất tử có đây,
Sao người uống trăm đắng, Tất cả các dục lạc, Thật trăm cay ngàn đắng.
503. Nước bất tử có đây!
Sao người ưa dục não! Mọi dục lạc đốt cháy Sôi sùng sục nung nấu.
504. Ðây không có kẻ thù!
Sao thích dục thù địch? Vua lửa, trộm, nước, oán, Thù chung thật là nhiều.
505. Ở đây có giải thoát!
Sao để dục giết trói, Trong dục có giết trói! Mê dục nhiều khổ đau.
506. Ðuốc cỏ đang cháy rực,
Nắm, không thả, bị đốt, Dục ví như bó đuốc, Ðốt cháy ai không thoát.
507. Chớ nhận dục lạc nhỏ,
Bỏ lạc lớn rộng rãi, Chớ như cá nuốt câu, Sau phải chịu hoạn nạn.
508. Hãy nhiếp dục trong dục,
Như chó bị dây cột, Chớ để dục ăn ngươi, Như dân đói ăn chó.
509. Khổ thật là vô lượng,
Khiến tâm nhiều ưu tư, Ngươi hệ lụy với dục, Hãy bỏ dục vô thường.
510. Ở đây, không có già!
Sao theo dục bị già? Mọi sanh ở khắp nơi, Bị bệnh chết chi phối,
511. Ðây không già, không chết.
Ðây con đường không già, Không chết, không sầu não, Không thù địch trói buộc, Không vấp ngã sợ hãi, Không nung nấu đọa đầy.
512. Ðích này, nhiều người đạt,
Ðích này là bất tử, Nay cần phải chứng được, Ai như lý chú tâm, Nếu không có nỗ lực, Không sao chứng đạt được. Sumedhà nói vậy, Không thích đi đến hành Nàng thuyết phục được vua, Với tóc quăng trên đất.
513. Ðứng dậy A-ni-ka
Chắp tay xin cha nàng, Hãy cho Su-me-dha, Ðược xuất gia tu học, Ðể nàng thấy cho được, Giải thoát và chân lý.
514. Mẹ cha cho xuất gia,
Thoát sầu, sợ, khiếp đảm, Sáu thắng trí chứng đạt.
515. Chứng luôn quả tối thượng.
Dầu còn là học nữ.
516. Thật vi diệu hy hữu!
Một công chúa con vua, Lại đạt được Niết-bàn! Nàng nói lên như sau, Thời trước đời cuối cùng.
517. Trong thời đức Thế Tôn,
Konàgamana! Trong trú xứ mới làm, Tại cảnh Tăng già lam, Với bạn là ba người, Chúng tôi cúng tịnh xá.
518. Mười lần, một trăm lần,
Mười trăm, trăm trăm lần, Chúng tôi sanh chư Thiên, Còn nói gì, làm người.
519. Giữa chư Thiên chúng tôi,
Có được thân lực lớn, Còn nói gì chúng tôi, Khi được làm thân người, Ta hoàng hậu, bảy báu! Ta chính là nữ báu.
520. Ðây là nhân, là nguồn
Ðây chính là căn gốc, Kham nhẫn lời Ðạo Sư! Ðây dây chuyền thứ nhất Ðấy chính là Niết-bàn, Nếu chúng ta mến pháp.
521. Như vậy với lòng tin,
Họ thuyết rõ nên lời Lời nói đầy trí tuệ, Thù thắng và tối thượng Họ chán ghét tái sanh, Do chán ghét, tham diệt. |