Khuddaka Nikaya "The Short Passages" Hòa Thượng Thích Minh Châu Dịch Việt TẬP II 2.2 NGẠ QỦY SỰ
PHẨM I PHẨM CON RẮN
1. Bậc Thánh ví như các ruộng đồng,
Người cho là chính các nhà nông, Hạt gieo là vật đem dâng cúng, Kết quả từ đây được hưởng phần. 2. Hạt giống đây và đám ruộng đồng Dành cho ngạ quỷ lẫn người trồng, Nơi nầy ngạ quỷ thường an hưởng, Thí chủ tín thành phước đức tăng. 3. Vì hành thiện nghiệp ở trên đời, Cúng lễ các ma quỷ đói mồi, Sẽ đến cõi thiên làm trú xứ, Nhờ người đã tạo nghiệp an vui.
1. Nhà ngươi vàng rực khắp toàn thân,
Chiếu ánh sáng ra khắp mọi vùng, Song miệng ngươi như mồm lợn đực, Nghiệp gì ngươi tạo kiếp xưa chăng?
2. Xưa con điều phục khéo về thân,
Nhưng khẩu con không được hộ phòng, Vì thế hình hài con vậy đó, Nà-ra-da thấy rõ con cùng.
3. Nà-ra-da, vậy hãy xem đây,
Con muốn trình Tôn giả việc này: Ðừng phạm ác tà về khẩu nghiệp, E ngài sẽ hóa mõm heo vầy!
1. Ngươi có màu da sáng đẹp sao,
Như chư Thiên ở cõi trời cao, Ngươi đang lơ lửng trong không khí, Song miệng ngươi hôi thối biết bao, Vì đám bọ sâu đang cắn xé, Kiếp xưa ngươi tạo ác hành nào?
2. Là một Tỷ-kheo có ác ngôn,
Dù con giữ khổ hạnh vuông tròn, Con không chế ngự về ngôn ngữ, Con được màu da sáng tựa vàng Nhờ khổ hạnh xưa, song miệng thối Vì lời phỉ báng của mồm con. 3. Chính Ngài đã thấy việc này rồi Ai giới đức và thương xót đời, Sẽ bảo: "Ngươi đừng nên phỉ báng Cũng không dối trá, nói sai lời, Về sau hóa Dạ-xoa thần lực, Hưởng thọ thú vui như ý ngươi.
1. Với mọi quan tâm, kẻ có lòng
Phải dâng lễ cúng các gia tông, Các vong linh những người thân thuộc, Cùng với chư Thiên lẫn thổ thần. 2. Trì Quốc, Ða Văn, Quảng Mục vương, Thiên vương Tăng Trưởng giữ trần gian, Tứ Thiên vương được người tôn kính, Thí chủ không mất quả phước phần. 3. Bởi vì kêu khóc hoặc sầu bi, Thương tiếc than van chẳng ích gì, Không lợi gì cho người quá cố, Khi thân nhân giữ thói lề kia. 4. Song lễ vậy này được cúng dâng Khéo đem an trú ở chư Tăng, Quả này hiện tại và sau nữa Lợi lạc lâu dài với cổ nhân.
1. Bọn chúng đứng kia, ngoại bức tường,
Những nơi trống trải, ngã tư đường, Chúng đang đứng ở ngoài song cửa, Khi đã về nhà tại cố hương. 2. Dù tràn trề ẩm thực liên miên Ðủ loại cứng mềm được dọn lên, Cũng chẳng có ai cần bọn chúng, Bởi vì nghiệp chúng đã gây nên. 3. Những người lân mẫn, lắm tình thương Ðúng lúc đem cho đám họ hàng Các thức cao lương, đồ ẩm thực Với lời cầu nguyện: "Ðể dành phần Lễ này cho đám người thân thuộc, Mong các họ hàng được phước ân". 4. Và các đám này đã đến đây, Các vong linh của họ hàng này, Thảy đều tụ tập đồng vui hưởng Các thực phẩm đều phong phú thay. 5. Chúng cầu: "Trường thọ các người thân, Nhờ các vị, ta được hưởng ân, Lòng quý trọng ta đà biểu lộ, Người cho chẳng thiếu quả dành phần". 6. Chốn kia không có cấy cày đâu, Cũng chẳng hề nuôi súc vật nào, Buôn bán như đây đều chẳng có, Cũng không đổi vật lấy vàng trao. 7. Bên kia thế giới các vong linh Nhờ vật cúng dường để dưỡng sinh, Như nước đổ từ trên núi xuống Cúng dường nuôi ngạ quỷ thân tình. 8. Giống như tất cả các dòng sông Chảy xuống đổ đầy cả đại dương, Cũng vậy những gì người bố thí Từ đây nuôi sống các vong nhân. 9. Những thân bằng quyến thuộc trong nhà Trước đã cho tă, giúp đỡ ta; Mong mọi người ban phần ngạ quỷ, Nhớ công họ tạo thuở xưa xa. 10. Bởi vì kêu khóc hoặc sầu bi, Thương tiếc, than van chẳng ích gì, Không lợi gì cho người quá cố, Khi thân nhân giữ thói lề kia. 11. Song lễ vật này được cúng dâng Khéo đem an trú ở chư Tăng, Quả này hiện tại và sau nữa Lợi lạc lâu dài với cổ nhân. 12. Ðây là nghĩa vụ của thân nhân Tôn trọng vong linh, đã cúng dâng, Tăng chúng được thêm nhiều dõng lực, Người làm công đức lớn vô ngần.
1. Trần truồng và xấu xí hình dung,
Ngươi thở mùi hôi thối nặc nồng, Bao phủ toàn thân đầy bọ nhặng, Ngươi là ai đứng ở đây chăng?
2. Tôn giả, con là ngạ quỷ nương,
Thần dân khốn khổ của Diêm vương, Vì con đã phạm hành vi ác, Con đến cõi ma đói ẩn thân. 3. Sáng ngày năm đứa bé con sinh, Chiều tối năm trai lại hiện hình, Tất cả, con đều xâu xé hết, Nhưng không vừa đủ để nuôi mình. 4. Lòng con đang nóng cháy như rang, Bốc khói vì cơn đói bạo tàn, Con chẳng tìm đâu ra nước uống, Hãy nhìn tai họa giáng đầu con.
5. Ngày xưa đã phạm ác hành gì
Do khẩu, ý, thân đã thực thi, Nay phải đền bù vào tội lỗi, Ngươi xâu xé thịt lũ hài nhi?
6. Vợ bé chồng con đang có thai,
Con mưu việc ác chống nàng hoài, Chính con với trí tâm điên đảo Ðã khiến nàng kia sẩy bé trai. 7. Thai chừng hai tháng máu tuôn tràn, Bà mẹ giận đưa các họ hàng, Bà ấy bảo con thề độc hại, Và con bị phỉ báng muôn vàn. 8. Chính con đã nhận lấy lời thề Khủng khiếp, tràn đầy giả dối kia: "Nếu việc ấy do tôi tự tạo, Thì tôi ăn thịt đám hài nhi". 9. Do kết quả hành nghiệp của mình Cùng lời thề độc ác gian manh, Con xấu xé thịt bầy con trẻ, Vì quá khứ, con vấy máu tanh.
1. Trần truồng và xấu xí hình dung,
Ngươi thở mùi hôi thối nặc nồng, Bao phủ toàn thân đầy bọ nhặng, Nguơi là ai đứng ở đây chăng?
2. Tôn giả, con là ngạ quỷ nương,
Thần dân khốn khổ của Diêm vương, Vì con đã phạm hành vi ác, Con đến cõi ma đói ẩn thân. 3. Sáng ngày bảy đứa trẻ con sinh, Chiều tối bảy trai lại hiện hình, Tất cả, con đều xâu xé hết, Song không vừa đủ để nuôi mình. 4. Lòng con đang cháy nóng như rang, Bốc khói, vì cơn đói bạo tàn, Con chẳng được tâm hồn lắng dịu, Khác nào lửa đốt, khổ muôn vàn.
5. Ngày xưa đã phạm ác hạnh gì,
Từ khẩu, ý, thân đã thực thi, Vì phạm lỗi lầm nào quá khứ, Mà ngươi ăn thịt đám hài nhi?
6. Ngày xưa con có được hai trai,
Bọn chúng trưởng thành đủ cả hai, Khi đã thấy con mình lớn mạnh, Con thường khinh bỉ lão chồng tồi. 7. Sau đó chồng con nổi hận sân, Cưới về thêm một ả hồng quần, Khi nàng kia đã mang thai nghén, Con nảy sinh tâm ác hại nhân. 8. Con có tâm gian xảo, ác tà Khiến cho nàng phải bị thai sa, Máu tuôn khủng khiếp và ghê rợn, Việc ấy xảy vào tháng thứ ba. 9. Khi ấy mẹ nàng nổi hận sân, Liền đưa con đến đám thân nhân, Bà truyền con nói lời thề độc, Và bảo mọi người phỉ báng con. 10. Chính con đã nhận thấy lời thề, Khủng khiếp tràn đầy giả dối kia: "Nếu việc ấy do tôi tự tạo, Thì tôi ăn thịt đám hài nhi". 11. Do kết quả hành nghiệp của mình, Cùng lời thề độc ác gian manh, Con xấu xé thịt bầy con trẻ, Vì quá khứ, con vấy máu tanh.
1. Sao con có vẻ giống người khùng,
Con cắt cỏ non, lại nói thầm Cùng với bò già vừa mới chết, Luôn môm bảo nó: "Hãy ăn, ăn!" 2. Chẳng phải nhờ ăn uống, dỗ dành Mà con bò chết sẽ hồi sinh, Con tôi khờ dại ngây ngô quá Quả giống người đâu đó, thật tình.
3. Bốn chân này với chiếc đầu này,
Với cái đuôi và thân thể đây, Ðôi mắt là đây còn đủ cả, Con bò phải đứng dậy lên ngay! 4. Song đôi tay với cả đôi chân, Thân thể và đầu tóc của ông, Nay chúng ở đâu, nào chẳng thấy, Khóc than đống đất, phải cha khùng?
5. Lòng ta quả thực nóng bừng
Giống như sữa lạc đổ trong lửa đào, Nay vừa được tưới nước vào, Và làm tiêu tán biết bao khổ sầu. 6. Quả con nhổ mũi tên đau Nỗi sầu kia đã cắm sâu vào lòng, Con xua mọi nỗi đau buồn Vì cha thương tiếc phụ thân của mình. 7. Tâm ta đã được an bình, Nỗi buồn dứt bỏ trong mình từ nay, Ta không khóc nữa giờ đây, Sau khi nghe những lời này, con thân. 9. Vậy là các bậc trí nhân, Ðầy lòng lân mẫn ân cần thiết tha Xua tan sầu não cho ta Như Su-jà với cha già giờ đây.
1. Phân dơ máu mủ hiện lên đầy
Cho nó, vì sao có quả này? Hạnh nghiệp gì người này đã tạo Mà nay ăn máu mủ như vầy? 2. Y phục sáng tươi, trắng, mịn màng Mới cho ngạ quỷ, dệt bằng lông, Tức thì chúng hóa thành sắt nóng, Ðã tạo nghiệp gì, ngạ quỷ nương?
3. Tôn giả, đây là vợ của con,
Bà không bố thí, tính xan tham, Khi con cúng các Sa-môn ấy, Bà phỉ báng con với ác ngôn: 4. "Mong ông ăn uống đám phân dơ, Nước tiểu, máu tanh, mủ thối tha, Ðây số phận ông về kiếp khác, Áo quần sẽ hóa sắt nung lò". Bởi vì ác nghiệp ngày bà tạo, Bà phải ăn phân mãi đến giờ.
1. Nàng là ai trú ở lâu đài,
Xin hỏi, sao không đến phía ngoài? Mau bước ra đây, này nữ chủ, Cho ta chiêm ngưỡng lực hùng oai.
2. Ta đây khốn khổ lại trần truồng,
Không dám bước ra bởi thẹn thưồng Che tấm thân mình bằng mái tóc, Vì ta ít tạo nghiệp hiền lương.
3. Ta sẽ đem y phục tặng nàng,
Mặc vào che kín, hỡi hồng nhan, Bước ra, nữ chủ, ta mong muốn Nhìn ngắm nàng mang đủ lực thần.
4. Những vật gì chư vị tặng ta
Cũng không giúp ích được ta mà. Song đây có một người đồ đệ Ðầy đủ lòng tin Ðức Phật đà. 5. Sau khi đem áo tặng người này, Hồi hướng cho ta phước đức vầy, Ta sẽ được ban nhiều hạnh phúc, Mọi nguồn lạc thú sẽ tràn đầy.
6. Khi đã tắm chàng, đám phú thương
Cho chàng cư sĩ tẩm dầu hương, Và cho chàng được mang y phục, Nữ quỷ hưởng công đức cúng dường. 7-8. Kết quả này do việc cúng dường: Tràn đầy y phục với đồ ăn. Xiêm y thanh lịch, nàng trong trắng Khoác lụa Ba-la-nại tuyệt trần, Vừa mỉm miệng cười, nàng mỹ nữ Bước ra lầu ấy, lại thưa rằng: "Ðây là kết quả từ công đức Lễ vậy các ngài đã hiến dâng".
9. Lâu đài lắm kiểu cách cao sang
Khả ái, tươi vui, sáng rỡ ràng, Thần nữ nói cho đoàn lữ khách Nghiệp gì đây kết quả cho nàng?
10. Gặp người khất sĩ bước du hành,
Chân chánh Tỷ-kheo, dạ tín thành, Ta đến cúng dường người bánh dẻ Trộn dầu mè với chính tay mình. 11. Vì thiện nghiệp này ta hưởng đây Trong lâu đài đã biết bao ngày Như là kết quả phần công đức, Song chẳng còn lâu ở chốn này. 12. Sau bốn tháng nay sắp đến gần, Rồi ta sẽ gặp Dạ-ma thần, Xuống miền địa ngục đầy tàn khốc, Ta sẽ đọa kinh khủng tột cùng. 13. Ngục bốn góc và bốn cửa vào, Ðược chia phần nhỏ thật cân sao, Chung quanh tường sắt đều bao bọc, Và sắt che trên đỉnh mái cao. 14. Nền bằng sắt rực lửa bừng bừng, Nóng bỏng, chói lòa khắp mọi phương, Ðịa ngục muôn đời còn đứng mãi, Trải dài luôn cả trăm do-tuần. 15. Nơi kia ta chịu khổ lâu dài Thọ quả do tà nghiệp chín muồi, Vì thế ta thường than khóc mãi, Chuyện này quả thật chẳng hề nguôi.
1. Một thần cỡi bạch tượng đưa đường,
Ở giữa, xe la kéo một chàng, Phía cuối, một nàng ngồi chiếc cáng Chiếu đầy ánh sáng khắp mười phương. 2. Song hai ngươi nắm búa trong tay, Tan nát toàn thân lẫn mặt mày, Ác nghiệp nào xưa ngươi đã tạo, Sao ngươi uống máu của nhau vầy?
3. Thần ngồi phía trước dẫn đưa đường
Trên bạch tượng kia, vật bốn chân, Ðó chính là con ta, trưởng tử, Cúng dường, nay được hưởng hồng ân. 4. Còn thần ngồi giữa ở trên xe Có bốn con la kéo bốn bề, Xe chạy thật nhanh, là quý tử, Thanh cao thí chủ, sáng ngời kia. 5. Cô gái ngồi sau chiếc cáng dài, Nữ thần thông tuệ cặp mắt nai Dịu hiền, cô út nhà ta đó, Nàng hưởng nửa phần hạnh phúc thôi. 6. Những thần này với trí khinh an, Kiếp trước đã dâng lễ cúng dường Lên các Bà-la-môn, ẩn sĩ, Còn ta keo kiệt lại xan tham Ðã từng phỉ báng nhiều tu sĩ. Vì chúng ngày xưa đã phát ban, Nay chúng thong dong đi khắp chốn, Ta khô như sậy bị cưa ngang.
7. Hai vị thường ăn thực phẩm nào?
Loại giường của các vị ra sao? Cách nào nuôi sống, người sai phạm Trọng tội, khi đầy đủ biết bao Thực phẩm dồi dào, nhưng bất hạnh Và nay đang chịu quả thương đau?
8. Ta đánh nhau và uống máu nhau,
Dù uống đã nhiều, vẫn khát khao, Chẳng được thức gì ăn để sống, Chúng ta không thỏa mãn đâu nào. 9. Như những người không biết cúng dường Mạng chung, vào cõi Dạ-ma-vương, Sau khi nhận thấy phần ăn uống, Chẳng hưởng được gì lợi lạc thân. 10. Chịu đói khát nhiều ở cõi âm, Lâu dài ngạ quỷ phải than thân, Bởi vì chúng bị luôn hành hạ Do chúng tạo bao nghiệp ác gian, Chúng thường nhận lãnh nhiều đau khổ Như là quả báo đắng cay tràn. 11. Tài sản giàu sang chẳng vững vàng, Ðời người trên thế giới vô thường, Từ vô thường biết vô thường ấy, Người trí đi tìm chốn trú an. 12. Những người biết Ðạo pháp bình yên, Nếu có trí vầy chớ lãng quên Dâng lễ cúng dường khi đã học Lời chư La-hán, chúng Tăng hiền.
1. Như con rắn trút bỏ da tàn,
Ðạt đến trưởng thành chính bản thân, Cũng vậy, khi thân không hưởng lạc, Ðúng thời, người chết phải từ trần. 2. Kẻ bị thiêu không hiểu biết rằng Họ hàng quyến thuộc vẫn đau thương, Cho nên tôi chẳng hề than khóc, Nó đã đi theo đúng bước đường.
3. Không gọi, từ đâu nó đến đây,
Chẳng ai cho phép, nó đi ngay, Nó đi, nó đến đều như vậy, Sao phải khóc than nó chốn này? 4. Kẻ bị thiêu không hiểu biết rằng Họ hàng quyến thuộc vẫn đau thương, Cho nên tôi chẳng hề than khóc, Nó đã đi theo đúng bước đường.
5. Nếu con khóc, sẽ phải gầy mòn,
Bù đắp, có gì trả lại con? Còn phát sinh ra nhiều bất lợi Cho bà con, quyến thuộc, thân bằng. 6. Kẻ bị thiêu không hiểu biết rằng Họ hàng quyến thuộc vẫn đau thương, Cho nên con chẳng hề than khóc, Kẻ đã đi theo đúng bước đường.
7. Giống như đứa trẻ nọ kêu than
Khi mặt trăng kia cứ lặn dần, Làm chính việc này đâu có khác Người nào thương khóc kẻ từ trần. 8. Kẻ bị thiêu không hiểu biết rằng Họ hàng quyến thuộc vẫn đau thương, Cho nên con chẳng hề than khóc, Kẻ đã đi theo đúng bước đường.
9. Giống như trường hợp Bà-la-môn
Có một chiếc bình đã vỡ toang Không thể phục hồi, và cũng vậy, Hoài công thương khóc kẻ từ trần. 10. Kẻ bị thiêu không hiểu biết rằng Họ hàng quyến thuộc vẫn đau thương, Cho nên con chẳng hề than khóc, Kẻ đã đi theo đúng bước đường.
PHẨM II PHẨM UBBARÌ
1.Trần truồng và xấu xí hình dung,
Gầy guộc và thân thể nổi gân, Ngươi yếu ớt, xương sườn lộ rõ, Người là ai, hiện đến đây chăng?
2. Tôn giả, con là ngạ quỷ nương,
Thần dân khốn khổ của Diêm Vương, Vì con đã phạm hành vi ác, Con đến cõi ma đói ẩn thân.
3. Ngày xưa ngươi phạm ác gì
Do thân, khẩu, ý thân đã thực thi, Vì hạnh nghiệp nào, ngươi đã đọa Từ đây đến cảnh giới âm ty?
4. Tôn giả, con không có họ hàng,
Mẹ cha, quyến thuộc để khuyên lơn: "Này con, hãy có tâm thành kính Với các Sa-môn, hãy cúng dường". 5. Ngũ bách niên từ đó đến đây, Con lang thang với tấm thân này, Trần truồng, đói khát luôn hành hạ, Ðây quả do nhiều ác nghiệp gây. 6. Kính bái hiền nhân với tín tâm Bạch ngài đại lực, xót thương con, Cúng dường lấy đức cho con hưởng, Giải thoát con từ cảnh khổ thân.
7. Chấp thuận với lời: "Ðược lắm thay!"
Vì lòng bi mẫn cõi đời này, Cúng dường Tăng chúng phần cơm nhỏ, Một mảnh y cùng chén nước đầy, Xá-lợi-phất Tôn nhân phát nguyện Dành cho ngạ quỷ phước phần này. 8. Lập tức ngay sau lễ cúng dâng, Phước phần hồi hướng đến vong nhân, Ðây là kết quả từ công đức: Thức uống, thức ăn, lẫn áo quần. 9. Sáng ngời, y phục thật thanh tân, Tơ lụa Ba-la-nại tuyệt trần, Mang đủ nữ trang và kiểu áo, Ðến gần Xá-lợi-phất Tôn nhân.
10. Hỡi nàng Thiên nữ, dáng siêu phàm
Ðang chiếu mười phương sáng rỡ ràng, Thiên nữ, sắc nàng trông chói lọi, Như vì sao cứu hộ trần gian. 11. Dung sắc này do nghiệp quả nào, Phước phần nàng hưởng bởi vì sao, Bất kỳ lạc thú nào yêu chuộng Trong dạ, nàng đều thỏa ước ao? 12. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần, Nàng tạo đức gì giữa thế nhân, Vì cớ gì oai nghi rực rỡ, Vẻ huy hoàng chiếu khắp mười phương?
13. Trước con hình vóc chỉ trơ xương,
Gầy guộc, đói cơm, lại ở truồng, Da dẻ nhăn nheo, nhờ Giác giả Từ bi nhìn cảnh ngộ đau thương. 14. Khi ngài ban tặng chủng hiền Tăng Một mảnh y vàng, một miếng ăn, Và chén nước kia, ngài đã chuyển Phước phần công đức đến cho con. 15. Hãy nhìn kết quả của phần ăn: Lạc thú mà con vẫn ước mong, Con được cả ngàn năm thọ hưởng Thức ăn đầy đủ các mùi hương. 16. Hãy nhìn kết quả phát sinh ra Từ một mảnh trong chiếc áo kia: Y phục giờ đây đầy đủ loại Khác nào quốc độ chúa Nan-da. 17. Tôn giả, nay con có biết bao Áo quần, mền đắp thật dồi dào, Bằng tơ lụa với lông loài vật, Ðủ loại vải dày mỏng đẹp sao. 18. Sung mãn và cao quý tuyệt vời, Chúng treo lơ lửng ở trên trời, Con mang tùy ý, thưa Tôn giả, Bất cứ loại nào thích thú thôi. 19. Hãy nhìn kết quả tạo nên phần Từ chén nước trong đã cúng dâng: Có bốn hồ sen sâu thẳm thẳm Ðược xây dựng khéo léo vô ngần. 20. Bến bờ xinh đẹp, nước trong xanh, Nhè nhẹ hương thơm, dịu mát lành, Bao phủ toàn sen xanh, đỏ thắm, Tràn đầy ngó súng mọc chung quanh. 21. Phần con an hưởng thú vui chơi, Chẳng sợ gì đâu bốn góc trời, Tôn giả, nay con về cõi đất Ðể con đảnh lễ đấng thương đời.
1. Trần truồng và xấu xí hình dung,
Gầy guộc và thân thể nổi gân, Ngươi yếu ớt, xương sườn lộ rõ, Người là ai, hiện đến đây chăng?
2. Tôn giả, xưa ta mẹ của ngài,
Trong nhiều kiếp trước ở trên đời, Tái sanh cảnh giới loài ma quỷ, Ðói khát giày vò mãi chẳng thôi. 3. Những thứ gì nôn tháo, bọt mồm, Nước mũi tuôn ra, nước dãi đờm, Chất mỡ rỉ ra từ xác chết Bị thiêu, máu sản phụ lâm bồn. 4. Máu chảy ra từ các vết thương, Hoặc từ đầu, mũi bị cưa ngang, Những gì cấu uế trong nam nữ, Ðói lã, ta đều phải lấy ăn. 5. Máu mủ ta ăn của các loài, Và luôn máu mủ của con người, Không nơi cư trú, không nhà cửa, Nằm chiếc giường đen nghĩa địa hoài. 6. Tôn giả, xin Tôn giả cúng dường, Vì ta, ngài bố thí ban ân, Ðể cho ta hưởng phần công đức, Giải thoát ta từ máu, mủ, phân.
7. Khi nghe mẹ đã nói gần xa,
Thương xót, ngài U-pa-tis-sa, Triệu tập Mục-kiền-liên đại lực, Cùng A-na-luật, Kiếp-tân-na. 8. Khi đã làm xong bốn cái am, Ngài dâng lễ cúng tứ phương Tăng, Am tranh, thực phẩm và hồi hướng Công đức về cho mẹ hưởng phần. 9. Lập tức ngay sau lễ cúng dâng, Phước phần hồi hướng đến vong nhân, Ðây là kết quả từ công đức: Thức uống, thức ăn, lẫn áo quần. 10. Xiêm y thanh lịch hiện dần ra, Ðệ nhất Ba-la-nại lụa là, Tô điểm ngọc vàng, nhiều kiểu áo, Ðến gần Tôn giả Ko-li-ta.
11. Hỡi nàng Thiên nữ, dáng siêu phàm
Ðang chiếu mười phương sáng rỡ ràng, Thiên nữ, sắc nàng trông chói lọi, Như vì sao cứu hộ trần gian. 12. Dung sắc này do nghiệp quả nào, Phước phần nàng hưởng bởi vì sao, Bất kỳ lạc thú nào yêu chuộng Trong dạ, nàng đều thỏa ước ao? 13. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần, Nàng tạo đức gì giữa thế nhân, Vì cớ gì oai nghi rực rỡ, Vẻ huy hoàng chiếu khắp mười phương?
14. Xá-lợi-phất Tôn giả cúng dường,
Nhờ đây, con hạnh phúc hân hoan, Bốn phương con chẳng hề kinh hãi, Tôn giả chính là bậc xót thương Khắp cõi trần gian, thưa Giác giả, Con về đây kính lễ tôn nhan.
1. Trần truồng và xấu xí hình dung,
Gầy guộc và thân thể nổi gân, Ngươi yếu ớt, xương sườn lộ rõ, Ngươi là ai hiện đến đây chăng?
2. Mat-tà là chị, hỡi Tis-sà,
Chị lấy chồng chung một kiếp xưa, Do chị đã gây nên ác nghiệp, Từ đây đọa đến cõi yêu ma.
3. Ngày xưa đã phạm ác hạnh gì
Do khẩu, ý, thân chị thực thi, Vì hạnh nghiệp nào nên đã đọa Từ đây đến cảnh giới âm ty?
4. Xưa chị ác tâm, lắm hận sân,
Xan tham, dối trá, lại ghen hờn, Vì dùng ác ngữ làm thương tổn, Chị đoạ từ đây đến cõi âm.
5. Em còn nhớ mọi chuyện ngày xưa,
Chị thật hung hăng thuở bấy giờ, Song có việc này em muốn hỏi: Tại sao mình chị phủ đồ dơ?
6. Một buổi em vừa tắm gội xong,
Áo quần sạch sẽ mới vừa mang, Chị đây, quả thật, còn hơn thế, Chị điểm tô nhiều món nữ trang. 7. Khi điểm trang vầy, chị ngó qua Em đang nói chuyện với chồng ta, Chính vì việc ấy, niềm ganh tỵ, Cuồng nộ trong lòng bột phát ra. 8. Rồi chị cầm đồ rác bụi lên, Ðúng là chị đã rải đầu em, Vì do kết quả hành vi ấy, Chị phải giờ đây chịu lấm lem.
9. Thật em biết mọi chuyện ngày xưa,
Chị rảy lên em lắm bụi dơ, Nhưng có việc này em muốn hỏi: Tại sao chị ngứa ngáy giày vò?
10. Tìm dược thảo, xưa hai chúng ta
Cùng đi vào tận chốn rừng già, Em tìm các cỏ cây làm thuốc, Chị hái quả cây Ka-pi-ka. 11. Lúc ấy em không biết chút nào, Giường em, chị rải chúng nhiều sao, Vì do kết quả hành vi ấy, Chị bị giày vò, ngứa biết bao!
12. Thật ra, em biết rõ hoàn toàn
Chị rải trái kia khắp cả giường, Song có việc này em muốn hỏi: Tại sao chị phải chịu trần truồng?
13. Ngày kia có cuộc họp thân bằng,
Tụ tập họ hàng lại thật đông, Em đã được mời đi dự lễ Cùng chồng ta đó, chị thì không. 14. Thế rồi em chẳng biết hoàn toàn, Chị lấy cất đi mọi áo quần, Do chính việc này sinh kết quả, Giờ đây chị phải chịu trần truồng.
15. Thật ra em biết chuyện kia mà,
Chị lấy áo quần em quẳng xa, Song có việc này em muốn hỏi: Sao mùi xú uế chị xông ra?
16. Vòng hoa, hương liệu, với trầm hương
Chị lấy của em vứt hố phân, Do quả chị làm ra ác nghiệp, Chị xông mùi xú uế vô cùng.
17. Ðúng là em biết rõ điều này,
Ác nghiệp kia do chị đã gây, Song có việc này em muốn hỏi: Tại sao chị khốn khổ như vầy?
18. Tài sản trong nhà của chúng ta
Thuộc về cả chị lẫn em mà, Cúng dường bố thí là công đức, Song chị không hề tự tạo ra Một chỗ trú an, nay khốn khổ, Là do kết quả lỗi lầm xưa. 19. Em thường bảo chị chính lời này: Chị cả đang hành ác nghiệp đây, Song nếu không làm điều tổn đức, Về sau sẽ hưởng phước tràn đầy".
20. Thái độ hận sân, chị đến gần
Bên em, chị tật đố ghen hờn, Hãy nhìn quy luật điều chân lý: Kết quả hành vi ác đã làm. 21. Chị lắm gia nhân ở tại nhà, Nữ trang đầy đủ thật xa hoa, Ngày nay chúng được người ngoài hưởng, Lạc thú ở đời chỉ thoảng qua. 22. Giờ đây, cha của bé Bhù-ta Từ chợ sắp quay trở lại nhà, Ông sẽ tặng quà cho chị đó, Ðừng đi, hãy đợi lát giây mà.
23. Trần truồng, dị tướng, quá hao gầy,
Mình mẩy đường gân nổi rõ đầy, Ðây chiếc khố che phần hạ thể, Ðừng cho bố trẻ thấy ta vầy.
24. Này, chị muốn em tặng thứ nào,
Làm gì giúp đỡ chị hay sao, Ðể cho chị được nhiều an lạc, Hạnh phúc mọi điều thỏa ước ao?
25. Ðây bốn Tỷ-kheo của chúng Tăng,
Và thêm vào đó bốn Sa-môn, Cúng dường tám vị và hồi hướng Công đức cho ta được hưởng phần, Sau đó, ta tràn đầy hạnh phúc, Thỏa lòng ao ước được hồng ân.
26. "Ðược lắm!", nàng vừa nói vậy xong,
Liền đem dâng cúng tám Sa-môn Phạn trai, cùng với nhiều y phục, Hồi hướng phước phần đến cổ nhân. 27. Lập tức ngay sau lễ cúng dâng, Phước phần hồi hướng đến vong nhân, Ðây là kết quả từ công đức: Thức uống, thức ăn, lẫn áo quần. 28. Sáng ngời, y phục thật thanh tân, Tơ lụa Ba-la-nại tuyệt trần, Mang đủ nữ trang và kiểu áo, Ðến gần vợ kế của phu nhân.
29. Hỡi nàng Thiên nữ, dáng siêu phàm
Ðang chiếu mười phương sáng rỡ ràng, Thiên nữ, sắc nàng trông chói lọi, Như vì sao cứu hộ trần gian. 30. Dung sắc này do nghiệp quả nào, Phước phần nàng hưởng bởi vì sao, Bất kỳ lạc thú nào trong dạ Yêu chuộng, nàng đều thỏa ước ao? 31. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần, Nàng tạo đức gì giữa thế nhân, Vì cớ gì oai nghi rực rỡ, Vẻ huy hoàng chiếu khắp mười phương?
32. Mat-tà là chị, hỡi Tis-sà,
Chị lấy chung chồng một kiếp qua, Do chị đã gây nên ác nghiệp, Từ đây đọa tới cõi yêu ma, Nhờ em dâng lễ, nay an hưởng. Chị chẳng sợ gì mọi hướng xa. 33. Mong em trường thọ với thân nhân! Em hỡi, mong em hưởng phước ân Ðạt cảnh ly sầu bi, dục vọng, Cõi trời của Hóa Lạc Thiên thần. 34. Em sống đời sùng đạo, cúng dường, Tại đây bố thí, hỡi hồng nhan, Ðoạn trừ gốc rễ xan tham ấy, Em đến cõi thiên, phước nghiệp tràn.
1. Ðen đủi và hình tướng dữ dằn,
Thân mình xương xẩu thật kinh hoàng, Nhà ngươi mắt đỏ, răng vành chạch, Ta chắc ngươi không phải thế nhân.
2. Nan-dà là thiếp, hỡi Nan-da,
Thiếp chính vợ chàng một kiếp xưa, Vì đã dùng ngôn từ phỉ báng, Từ đây đọa đến cảnh yêu ma.
3. Ngày xưa đã phạm ác hạnh gì
Do khẩu, ý, thân đã thực thi, Vì hạnh nghiệp nào nên đã đọa Từ đây đến cảnh giới âm ty?
4. Xưa thiếp ác ngôn, lắm hận sân,
Thiếp thường không kính trọng phu quân, Vì dùng lời lẽ gây thương tổn, Thiếp đọa từ đây tới cõi âm.
5. Ta tặng nàng đây chiếc áo choàng,
Áo này nàng hãy lấy mà mang, Sau khi nàng đã choàng xong áo, Ta sẽ dẫn nàng đến cố hương. 6. Nàng sẽ được ta tặng áo quần, Về nhà đủ thức uống, đồ ăn, Rồi nàng sẽ ngắm đôi nam tử, Dâu của nàng là một ác nhân.
7. Những gì chàng tặng, dẫu trao tay,
Cũng chẳng giúp cho thiếp thật hay, Song với Tỷ-kheo đầy giới đức, Ða văn, ly dục ở đời này, 8. Cúng dường chư vị đủ cao lương, Hồi hướng về cho thiếp phước ân, Thiếp sẽ được ban nhiều hạnh phúc, Ðạt thành mọi nguyện ước toàn phần.
9. "Ðược lắm!", chàng vừa hứa hẹn xong,
Cúng dường hào phóng lễ chàng dâng Dồi dào thực phẩm mềm và cứng, Y phục, dù, hương liệu, tọa sàng, Ðủ loại dép giày, hoa kết chuỗi, Sau khi dâng cúng các hiền Tăng Ly tham, đạo hạnh, đa văn đủ, Chàng chuyển phước phần đến cổ nhân. 10. Lập tức ngay sau lễ cúng dâng, Phước phần hồi hướng đến vong nhân, Ðây là kết quả phần công đức, Thức uống, thức ăn lẫn áo quần. 11. Sáng ngời, y phục thật thanh tân, Tơ lụa Ba-la-nại tuyệt trần, Mang đủ nữ trang và kiểu áo, Nàng liền tiến đến vị phu quân.
12. Hỡi nàng Thiên nữ dáng siêu phàm
Ðang chiếu mười phương sáng rỡ ràng, Thiên nữ, sắc nàng trông chói lọi Như vì sao cứu hộ trần gian. 13. Dung sắc này do nghiệp quả nào, Phước phần nàng hưởng bởi vì sao? Bất kỳ lực thú nào trong dạ Yêu chuộng, nàng đều thỏa ước ao? 14. Hỡi nàng Thiên nữ đại oai thần, Nàng tạo đức gì giữa thế nhân, Vì cớ gì oai nghi rực rỡ, Vẻ huy hoàng chiếu khắp mười phương?
15. Nan-dà là thiếp, hỡi Nan-da,
Thiếp chính vợ chàng một kiếp qua, Do đã phạm vào bất thiện nghiệp, Từ đây đọa tới cõi yêu ma, Nhờ chàng dâng lễ, nay an hưởng, Thiếp chẳng sợ gì mọi hướng xa. 16. Mong chàng trường thọ với thân nhân, Gia chủ, mong chàng hưởng phước ân, Ðạt cảnh ly sầu bi, dục vọng, Cõi trời của Hóa Lạc Thiên thần. 17. Chàng sống đời sùng đạo, cúng dâng, Tại đây, bố thí, hỡi phu quân, Ðoạn trừ gốc rễ xan tham ấy, Chàng đến cõi thiên chẳng lỗi lầm.
1. Ðứng lên! Tâu Ðại đến Kan-ha,
Sao Ðại đế nằm mãi thế kia? Ích lợi gì khi ngài ngủ thiếp? Chàng là bào đệ của ngài mà, Là tim, mắt phải ngài yêu quý, Gió cuốn Gha-ta hóa dại khờ!
2. Khi nghe lời của Ro-hi-ya,
Ðại đế Ke-sa, dáng xót xa, Nặng trĩu sầu tư, liền đứng dậy Chỉ vì bào đệ của nhà vua.
3. Sao dáng điên rồ, đệ thẩn thơ
Khắp kinh thành đất nước Dvà-ra, Thì thầm: "Thỏ! Thỏ!" luôn mồm ấy, Loại thỏ gì kia đệ ước mơ? 4. Thỏ dầu bằng ngọc hoặc vàng ròng, Hoặc bạc hay là loại thỏ đồng, Bảo ngọc, san hô, loài đá quý, Ta làm cho đệ thỏa cầu mong. 5. Còn có nhiều loài thỏ biết bao Vẫn thường chạy nhảy chốn rừng sâu, Loại này ta cũng mang cho đệ, Loại thỏ nào đâu đệ ước ao?
6. Những loại thỏ này đệ chẳng ham,
Những loài cư trú khắp trần gian, Ke-sa-va, hãy mau đem xuống Cho đệ thỏ kia chốn Quảng Hàn!
7. Bào đệ, chắc em sẽ bỏ đời,
Vì em mơ ước chuyện xa vời, Chuyện mà không có ai mơ ước: Con thỏ cung trăng ở cõi trời!
8. Nếu Kan-ha quả thật trí cao
Dạy cho người khác khỏi ưu sầu, Giờ đây sao vẫn còn than khóc Nam tử từ trần đã bấy lâu?
9. Mong con ta sống chẳng từ trần!
Không một người hay một vị thần Có thể đạt điều không thể đạt, Sao điều không thể lại cầu mong? 10. Không có bùa thiêng hoặc thuốc thang, Chẳng loài dược thảo hoặc tiền vàng Ðủ công năng để làm hồi phục Người chết Hoàng huynh vẫn khóc than. 11. Chính đám phú gia lắm bạc vàng, Quốc vương, quý tộc có giang san, Những người phong phú bao tiền của Cũng chẳng thoát tay lão tử thần. 12. Sát-ly, Sa-môn với Thủ-đà, Puk-ku-sa, Vệ-xá, Chiên-đà, Những người này với toàn gia tộc Cũng chẳng thoát tay lão-tử ma. 13. Những kẻ chuyên trì tụng chú thần Sáu phần sáng tạo bởi La-môn, Bọn này, bọn khác dùng tà thuật Cũng chẳng thoát tay lão-tử vong. 14. Ngay các trí nhân thật chánh chân, Các nhà khổ hạnh đã điều thân, Sa-môn, ẩn sĩ, dù tu luyện, Ðến đúng thời cơ cũng mạng vong. 15. Những bậc suốt đời tu tập tâm, Những người phận sự đã làm xong, Những người giải thoát, ly tham dục, Ðoạn thiện ác hành, cũng bỏ thân.
16. Lòng ta quả thực nóng bừng,
Khác nào sữa lạc đổ trong lửa đào, Em vừa tưới nước lạnh vào, Giờ đây ta dứt hết bao khổ sầu. 17. Quả em nhổ mũi tên đau Nỗi ưu phiền đã cắm sâu vào lòng, Xua tan mọi nỗi thương tâm, Sầu tư nặng trĩu, khóc thầm vì con. 18. Giờ đây trút bỏ đau buồn, Lòng ta lắng dịu, trí thường khinh an, Ta không còn phải khóc than, Từ khi nghe những lời vàng của em. 19. Vậy là những bậc trí hiền, Ðầy lòng bi mẫn, ưu phiền xóa ngay, Như Gha-ta tiểu đệ này Ðã làm huynh trưởng từ rày an tâm. 20. Kẻ nào bầu bạn hiền nhân Vẫn thường hầu cận thiết thân bên mình, Với lời khuyên nhủ chí tình Như Gha-ta với trưởng huynh của chàng.
1. Trần truồng và xấu xí hình dung,
Gầy guộc và thân thể nổi gân, Ngươi yếu ớt, xương sườn lộ rõ, Ngươi là ai đấy, hỡi vong nhân?
2. Tôn giả, ta là ngạ quỷ nhân,
Thần dân xấu số của Diêm vương, Vì ta đã phạm hành vi ác, Ta đến nơi ma đói ẩn thân.
3. Ngày xưa ngươi phạm ác hành gì,
Do khẩu, ý, thân đã thực thi, Vì hạnh nghiệp nào ngươi đã đọa Từ đây đến cảnh giới âm ty?
4. Kinh thành bộ tộc Da-san-na,
Danh vọng lẫy lừng E-ra-ka, Thuở trước ta là nhà triệu phú, Với tên Tài Hộ tặng cho ta. 5. Tám mươi ngàn chẵn cỗ xe lừa Chất chứa vàng ròng sở hữu ta, Thuở đó ta nhiều vàng bạc lắm, Ngọc trai, ngọc mắt báo đầy nhà. 6. Như vậy ta là đại phú ông, Nhưng ta lại chẳng muốn cho không, Khi ta ăn uống, ta cài cửa Ðể bọn ăn mày chẳng ngóng trông. 7. Xưa ta không mộ đạo, xan tham, Keo kiệt, dùng lời nói hại nhân, Ta cản nhiều người chuyên bố thí, Những người làm phận sự chuyên cần. 8. Ta nói: "Không sao có phước phần Dành cho việc bố đức thi ân, Tu thân đâu có đem thành quả?" Ta phá bao nguồn nước vệ đường, Ao giếng, hồ sen, vườn cảnh đẹp, Lối đi hiểm trở khó băng ngang. 9. Như vậy ta không tạo phước ân, Làm người gây ác nghiệp từ trần, Tái sanh vào xứ loài ma quỷ, Ðói khát luôn hành hạ khổ thân, Từ đấy đến nay ta tạ thế Tính ra vừa đủ năm lăm năm. 10. Ẩm thực ta không được hưởng phần, Do không có bố đức thi ân, Thì điều tai hại là như vậy, Vì ngạ quỷ luôn hiểu biết rằng: "Nếu chẳng muốn thi ân bố đức, Thì điều tai hại cũng ngang bằng". 11. Thuở trước ta không muốn phát ban, Ta không bố thí các kho tàng, Mặc dù bố thí là công đức, Ta chẳng tạo nên chốn trú an. 12. Ngày nay ta hối hận ăn năn, Nặng trĩu trong lòng bởi phải mang Hậu quả việc làm bao ác nghiệp, Và sau bốn tháng sẽ từ trần. 13. Ðọa miền địa ngục hãi hùng sao, Có bốn góc và bốn cửa vào, Ngục được chia phần theo kích thước, Xung quanh bao bọc với tường rào Làm bằng sắt nóng và trên mái Cũng có sắt che tận đỉnh cao. 14. Nền bằng sắt rực lửa bừng bừng, Nóng bỏng, chói lòa khắp mọi phương, Ðịa ngục muôn đời còn đứng mãi, Trải dài luôn cả trăm do-tuần. 15. Nơi kia ta chịu khổ lâu dài, Thọ quả do tà nghiệp chín muồi, Vì thế ta thường ân hận mãi, Khóc than thực tế chẳng hề nguôi. 16. Bởi vậy ta đem chuyện thật hay Nói cùng chư vị họp nơi đây, Ðừng bao giờ phạm hành vi ác, Dù giấu kín hay được tỏ bày. 17. Nếu ngươi đang phạm việc sai lầm, Hoặc sắp phạm, thì nỗi khổ tâm Sẽ chẳng rời ngươi, dù trốn tránh, Bay lên trời đến giữa hư không. 18. Hãy luôn tôn kính mẹ cùng cha, Quý trọng bậc niên trưởng tại nhà, Quy ngưỡng Bà-la-môn, đạo sĩ, Do vầy, thiên giới sẽ chờ ta. 19. Không giữa trời hay giữa biển thanh Dẫu đi vào kẽ núi non xanh, Cũng không tìm được trong trần thế Nơi chốn thoát thân khỏi ác hành.
1. Ngươi là vị khổ hạnh trần truồng,
Gầy guộc, ban đêm vượt dặm đường. Vì lý do gì, cho trẫm biết, Trẫm ban ngươi mọi vật giàu sang.
2. Thành Ba-la-nại tiếng vang lừng,
Nơi ấy ta là một phú ông Không bố thí và ham hưởng lạc, Vì làm ác, đọa cảnh Diêm công. 3. Ðói khổ làm ta kiệt quệ dần, Ta đau như thể bị kim châm, Vì gây ác nghiệp, cho nên phải Ði đến bà con để kiếm ăn, Song những kẻ nào tâm biển lận Vẫn không tin tưởng chuyện cho rằng Thi ân bố đức đem thành quả Xuất hiện đời sau giữa thế nhân. 4. Con gái ta thường nói với ta: "Con mong dâng cúng các ông cha". Bà-la-môn muốn cho người khác Ði dự tiệc bằng cách nói ra: "Ta sắp được mời ăn thịnh soạn Tại nơi kia ở An-dha-ka".
5. Vua truyền: "Khi đã nhận xong phần,
Ngươi trở lại đây vội bước chân, Trẫm muốn ban ngươi nhiều phước lộc, Nếu nhà ngươi có một nguyên nhân, Trình cho trẫm biết ngay duyên cớ, Trẫm sẽ nghe điêù xứng tín tâm. 6. "Mong vậy!", quỷ vừa mới nói ra, Liền bay đi đến phố An-dha. Nơi kia chúng hưởng đồ dâng cúng, Song hội chúng không xứng đáng mà, Sau đó về thành Vương Xá ấy, Một lần nữa yết kiến nhà vua. 7. Khi vua nhìn ngạ quỷ quay về, Liền bảo: "Nay ta phải cúng gì? Hãy nói thế nào là cách thức Khiến ngươi hưởng lạc thú tràn trề?"
8. Phục vụ Tỷ-kheo với Phật-đà,
Thức ăn, đồ uống, áo cà-sa, Cúng dường lấy phước cho ta hưởng, Ta sẽ hân hoan trọn kiếp mà. 9. Tức thì vua bước xuống hoàng cung, Dâng lễ tự tay đến chúng Tăng, Trình đức Như Lai về việc ấy, Rồi đem công đức tặng vong nhân. 10. Chói lòa ánh sáng, được tôn vinh, Trước mặt quân vương, quỷ hiện hình: "Ta đã trở thành thần đại lực, Không người nào sánh kịp uy danh. 11. Hãy nhìn ta hưởng đại vinh quanh Do Ðại vương vừa mới phát ban, Khi đã cúng Tăng-già đại lễ, Từ đây ta được mãi hân hoan, Vì có biết bao nhiêu phước lộc, Ta đầy hỷ lạc, hỡi quân vương".
1. Ðích ta tìm ở Kam-bo-ja
Thành tựu khi ta gặp Dạ-xoa, Thần ấy cho ta bao ước muốn, Bắt thần cùng ở với đoàn ta. 2. Hãy bắt lấy ngay Ðại lực thần, Cho dù cưỡng bách hoặc bằng lòng, Hãy đưa thần ấy lên xe gấp, Trở lại Dvà-ra vội bước chân.
3. Với cây rủ bóng, ngẫu nhiên ngồi,
Nằm nghỉ, ta không bẻ nhánh chơi, Vì kẻ nào hay làm phản bạn, Là người gây ác nghiệp trên đời.
4. Với cây cao bóng mát tình cờ
Ta đến nằm, ngồi thật tự do, Có thể đốn cây ngay tận gốc, Nếu điều này có lợi cho ta.
5. Với cây rủ bóng ngẫu nhiên ngồi,
Nằm nghỉ, ta không hái lá chơi, Vì kẻ nào hay làm phản bạn, Là người gây ác nghiệp trên đời.
6. Với cây cao bóng mát tình cờ
Ta đến nằm ngồi thật tự do, Có thể nhổ cây luôn cả rễ, Nếu điều này có lợi cho ta.
7. Tình cờ ta ở lại nhà ai,
Dù chỉ một đêm đến sáng mai, Ta được người kia mời ẩm thực, Ta không nghĩ kế hại cho người, Tri ân là một điều cần thiết Ðược các thiện nhân tán thán hoài. 8. Tình cờ ta trú ngụ nhà ai, Cho dẫu một đêm, chỉ một thôi, Và được người kia mời ẩm thực, Không nên nghĩ việc ác cho người, Kẻ nào tay chẳng gây tai hại Cũng chấm dứt mưu phản bạn đời. 9. Ngày trước nếu ai có thiện hành, Về sau phạm tội ác vào mình, Bàn tay trong sạch người kia thiếu, Sẽ chẳng gặp đâu phận tốt lành.
10. Ta đâu dễ bị một Thiên thần
Khuất phục, hay vua chúa, thế nhân, Ta chính Dạ-xoa, thần đại lực, Phi nhanh như chớp giữa hư không, Và ta thọ hưởng hình dung đẹp, Phúc phận cho ta đủ lực hùng.
11. Bàn tay ngài chói sáng vàng ròng,
Có mật rỉ và các suối trong Ðầy tặng vật tuôn từ mọi ngón, Nước cây trái ngọt nhỏ thành dòng, Nên ta tin chắc ngài oai lực Là chính Pu-rin-da hiện thân.
12. Ta chẳng là tiên, chẳng Thát-bà,
Chẳng Sak-ka hiệu Pu-rin-da, An-ku-ra hỡi, ta là quỷ Ðã đến đây từ Bhe-ru-na.
13. Xưa ngài có tính cách ra sao,
Ðời trước ngài theo nếp sống nào, Vì Thánh hạnh gì, tay ấy vẫn Hoàn thành thiện sự biết là bao?
14. Kiếp trước ta là một thợ may,
Suốt đời cùng khổ sống qua ngày, Ở Bhe-ru phố, ta không có Phương tiện gì ban phát tự tay. 15. Thuở ấy, tiệm ta ở cạnh nhà Của người mộ đạo A-say-ha, Chuyên gia bố thí đầy hào phóng, Khiêm tốn làm bao thiện sự mà. 16. Các đám ăn mày đến chỗ kia, Cùng đinh thập loại hỏi thăm ta: "Chúc ông may mắn! Xin cho biết Ði đến nơi đâu được phát quà?" 17. Khi các tiện dân đến hỏi ta, Ta cho biết chỗ A-say-ha, Vừa đưa tay phải ra, vừa bảo: "Chúc bạn gặp may, đến chốn kia, Nhà của A-say-ha ở đó Tặng vật dồi dào được phát ra". 18. Do vậy tay ta nay phát phân Những gì chư vị đến cầu mong, Nhờ nguyên nhân ấy, tay ta đó Ðang nhỏ mật ngon ngọt cả dòng, Vì Thánh hạnh xưa, ta tiếp tục Hoàn thành thiện sự với tay không.
19. Như thế xưa ngài chẳng tặng ai
Vật gì đâu với chính tay ngài, Nhưng vì thích thú nhìn người khác Bố thí, nên tay phải trải dài. 20. Do vậy tay ngài nay biếu không Những gì cần thiết với tha nhân, Nhờ nguyên nhân ấy, tay ngài đó Ðang nhỏ mật ngon ngọt cả dòng, Vì Thánh hạnh xưa, ngài tiếp tục Hoàn thành thiện sự với tay thần. 21. Ngài hỡi, người kia có tín tâm Dùng đôi tay lấy của cho không, Sau khi đã bỏ thân phàm tục, Người ấy đi đâu, hãy nói cùng.
22. Ta chẳng biết gì thuở đã qua,
Chuyện sanh tử của An-gi-ra, Người thành tựu việc không hề có, Song đã nghe từ Ves-sa-va, Người ấy sanh Thiên và cộng trú Cùng chư Thiên hội chúng Sak-ka.
23. Bố thí, làm lành đúng khả năng
Quả nhiên đầy đủ lợi vô ngần, Khi nhìn kẻ khác ban ân phước, Ai chẳng muốn làm thiện sự chăng? 24. Từ đây đến xứ Dva-ra-ka Quả thật khi về đất nước xưa, Ta sẽ phân chia nhiều tặng vật, Việc này đem hạnh phúc cho ta. 25. Ta sẽ tặng nhiều thức uống ăn, Áo quần, sàng tọa, chỗ nương thân, Lối đi qua các nơi nguy hiểm, Ðào giếng, và ao nước vệ đường.
26. Sao tay ngươi các ngón cong queo,
Và miệng của ngươi lệch một chiều, Ðôi mắt ngươi tuôn trào nước mãi, Nhà ngươi đã tạo ác hành nào?
27. Với người mộ đạo An-gi-ra,
Gia chủ làm công đức tại nhà, Tôi đã liên quan về thiện sự, Xưa tôi giám sát việc chia quà. 28. Nơi kia, khi thấy bọn xin ăn, Những kẻ thèm cơm nước phát phân, Ðã đến, tôi liền qua phía khác, Và tôi làm bộ mặt mày nhăn. 29. Nên tay tôi các ngón cong queo, Và miệng của tôi lệch một chiều, Ðôi mắt tôi tuôn trào nước mãi, Ngày xưa tôi tạo ác hành nhiều.
30. Kẻ khốn khổ kia, thật đúng là
Miệng ngươi méo lệch bởi ngày xưa Ngươi nhăn mày mặt khi nhìn thấy Người khác phân chia các món quà. 31. Vì sao ta có thể phát phân Y phục, tọa sàng, thức uống ăn, Mà lại mong nhờ tay kẻ khác Giúp ta phục vụ các tha nhân? 32. Từ đây đến xứ Dvà-ra-ka, Quả thật khi về đất nước xưa, Ta sẽ phân chia nhiều tặng vật, Việc này đem lại hạnh phúc cho ta. 33. Ta sẽ tặng nhiều thức uống ăn, Áo quần, sàng tọa, chỗ nương thân, Lối đi qua các nơi nguy hiểm, Ðào giếng, và ao nước vệ đường.
34. Sau khi trở về Dvà-ra-ka,
Vị ấy vừa quay bước đến nhà, Liền thiết lập công trình bố thí, Việc này đem hạnh phúc chan hòa. 35. Với tâm thanh thản, vị này ban Y phục, thức ăn uống, tọa sàng, Nơi chốn cho bao người tạm trú, Ðào ao và giếng nước bên đàng. 36. Ai muốn áo choàng, thức uống ăn? Ngựa bò ai mỏi mệt hay chăng? Từ nơi đây họ đem dây buộc Bò ngựa vào xe để chở hàng, Ai muốn nước hoa, dù đỡ nắng, Ai cần giày dép hoặc hoa tràng? 37. Như vầy bọn chúng cứ kêu la, Bọn hớt tóc và bán nước hoa, Ðầu bếp, không ngừng từ sáng tối Ở ngôi nhà của An-ku-ra.
38. Các bọn người kia vẫn nghĩ rằng:
"An-ku-ra ngủ thật bình an", Sin-dha-ka hỡi, ta trằn trọc, Vì chẳng thấy đâu bọn cái bang. 39. Chắc các người kia nghĩ đến mình: "An-ku-ra ngủ thật ngon lành". Sin-dha-ka hỡi, ta trằn trọc Vì chẳng thấy đâu đám lữ hành.
40. Nếu Sak-ka, chúa cõi Băm-ba,
Ban tặng cho ngài một ước mơ, Ngài sẽ chọn gì trong thế giới, Mong ngài bày tỏ, An-ku-ra?
41. Nếu Sak-ka, chúa cõi Băm-ba,
Ðem một điều mong ước tặng ta, Ta sẽ cầu xin từ buổi sáng Khi vừa thức giấc sớm tinh mơ, Món ăn thiên giới luôn đầy đủ, Hành khất tín thành cũng hiện ra. 42. Mong ước khi ta đang phát ban, Công năng bố thí chẳng tiêu tan, Sau khi bố thí, không ân hận, Ta ước tâm ta được lạc an, Trong lúc ta thi ấn bố đức, Ấy điều ta ước tự Thiên Hoàng.
43. Chớ nên cho tất cả gia tài,
Ngài phải hộ phòng sản nghiệp thôi, Vì thế, bạc vàng là chắc chắn Có giá trị hơn bố thí hoài, Bố thí quá nhiều sinh kết quả Gia đình không thể sống lâu dài. 44. Bậc hiền không chấp nhận xan tham, Cũng chẳng tán đồng quá phát ban, Vì thế, ngài nhìn xem của cải Tốt hơn là bố thí tràn lan; Người nào có quyết tâm chân chánh, Sẽ chọn đường trung đạo lạc an.
45. Ông nói điều này quả thật hay,
Phần ta muốn bố thí từ đây, Và cầu mong những người lương thiện, Mộ đạo mau chân đến chốn này; Như đám mây tràn đầy vực thẳm, Ta mong bồi dưỡng hạng ăn mày. 46. Nếu ta tâm trí được bình an, Khi thấy bọn hành khất hỏi han Hoan hỷ vì thi ân bố đức, Ðấy là hạnh phúc giữa nhân gian. 47. Nếu trí tâm ta được lặng yên, Khi nhìn hành khất đến cầu xin, Hân hoan vì việc ban ân huệ, Như vậy là thành tựu phước điền. 48. Trước khi bố thí, phải hân hoan, Tâm trí hân hoan lúc phát ban, Hoan hỷ sau khi ta bố thí, Thế là thành đạt phước nhân gian.
49. Sáu mươi ngàn chẵn chuyến xe bò
Thực phẩm hằng ngày được phát cho Các đám người trong nhà thí chủ Nguyện làm thiện sự An-ku-ra. 50. Ðầu bếp ba ngàn sống tại gia Của người thí chủ An-ku-ra, Ðiểm trang vàng ngọc, hoa tai đủ, Tận tụy nhiệt tâm phát tặng quà. 51. Thanh niên trai tráng sáu mươi ngàn Ðeo đủ hoa tai với ngọc vàng, Ðang bổ củi trong nhà thí chủ Cử hành đại bố thí nhân gian. 52. Nữ nhi một vạn sáu như hoa Tô điểm đồ trang sức ngọc ngà, Nhào bột thành bao hình bánh ngọt, Cử hành đại bố thí toàn gia. 53. Mười sáu ngàn kìa đám nữ nhân Xiêm y đủ mọi vẻ thanh tân, Tay cầm muỗng tại nhà gia chủ Phục vụ đại công đức phát phân. 54. Phát ban nhiều tới biết bao người, Người quý cao thay cống hiến hoài, Bố thí ân cần, tay chỉ bảo, Quan tâm chăm sóc mãi không thôi. 55. Nhiều tuần trăng, tháng tháng trôi qua, Chẳng biết bao năm với bốn mùa, Suốt một thời gian dài đẳng đẳng, Không ngừng bố thí, An-ku-ra. 56. An-ku-ra bố thí lâu dài, Cống hiến phát ban suốt cả đời, Ðến lúc từ trần, lìa bỏ xác, Ði lên thiên giới, cõi Ba mươi.
57. Lấy cơm đầy muỗng, In-da-ka
Dâng Trưởng lão A-na-luật-đà, Khi xả báo thân phàm tục ấy, Chàng lên cộng trú cõi Băm-ba. 58-59. Trong mười phương diện, In-da-ka Vượt trội An-ku-ra thật xa: Khả ái sắc, thanh, hương, vị, xúc, Trường tồn thọ mạng, đẹp màu da, Phước phần, danh vọng và quyền lực, Chàng đều vượt hẳn An-ku-ra. 60. Ở trong thiên giới, cõi Băm-ba, Bậc Tối thượng nhân, Ðức Phật-đà, Ðang ngự trên ngai Hoàng bảo thạch, Dưới chân của đại thọ San-hô. 61. Khi chư Thiên tụ tập mười phương, Ðảnh lễ đấng Toàn Giác Thế Tôn Vừa đến cõi thiên, đang trú ngụ Ở trên thượng đỉnh của Cao Sơn. 62. Không một thần tiên ở cõi trời Sánh bằng Ðức Phật vẻ hùng oai, Vượt lên tất cả chư Thiên ấy, Duy nhất Thế Tôn chiếu rạng ngời. 63. Ðồng thời có mặt An-ku-ra Cách đó mười hai dặm phía xa, Nhưng ở không xa Ðức Phật mấy, In-da-ka vượt An-ku-ra. 64. Khi Ðức Phật vừa chợt ngó qua An-ku-ra với In-da-ka, Muốn làm hai vị tăng công đức, Ðức Phật bèn cất tiếng nói ra: 65. "Lâu dài bố thí, An-ku-ra, Xưa phát phân nhiều để lợi tha, Nay vẫn đang ngồi xa cách quá, Ðến nơi này ở phía gần ta". 66. Ðược đấng Toàn tri kiến bảo ban, An-ku-ra vội nói lên rằng: "Lợi gì bố thí thời xưa ấy, Vì thiếu người tương xứng cúng dường? 67. In-da-ka hiện ở nơi đây, Dù đã cúng dường ít ỏi thay, Chàng vẫn sáng ngời hơn tất cả, Như trăng vượt các đám sao dày".
68. Ví như trong đám ruộng khô cằn
Hạt giống dù vô số được trồng, Chúng vẫn không đem nhiều kết quả, Và không làm đẹp ý nhà nông. 69. Cũng vậy đem nhiều của phát ban Cho người độc ác hoặc tà gian, Sẽ không tạo quả lành phong phú, Và chẳng làm vui kẻ cúng dường. 70. Nhưng khi ít hạt được gieo trồng Trong chỗ đất tươi tốt ruộng đồng, Lại có nhiều mưa hòa gió thuận, Ðược mùa làm đẹp ý nhà nông. 71. Cũng vậy, khi tôn kính chánh nhân, Những người đạo hạnh giữa nhân quần, Thiện hành dù chỉ là nho nhỏ, Cũng tạo công năng đại phước phần. Chư vị kết tập Kinh điển tiếp tục kể chuyện: 72. Vậy phải biết phân biệt cúng dường Ðem về phước báo lớn vô lường, Cúng dường có chú tâm suy xét, Thí chủ lên thiên giới trú an. 73. Ta phải cúng dâng lễ tín thành Lên người xứng đáng giữa quần sanh, Lễ dâng như vậy đem thành quả Phong phú như gieo hạt đất lành.
1. Khi một Tỷ-kheo đến nghỉ trưa
Và ngồi trên bến nước Hằng hà, Gần người, nữ quỷ hình ghê rợn, Dáng điệu rụt rè, tiến bước ra. 2. Mái tóc quỷ nương ấy thật dài Thả ra chấm đất, được buông lơi, Che thân bằng các chùm tóc ấy, Nữ quỷ thưa Tôn giả chuyện đời:
3. Năm mươi năm đã giã từ trần,
Con chẳng biết gì thức uống ăn. Tôn giả, cho con xin chút nước, Hiện con đang khát nước muôn phần.
4. Ðây dòng nước mát của sông Hằng
Chảy xuống từ miền núi Tuyết Sơn, Hãy lấy nước kia và uống gấp, Sao ngươi xin nước ở trên dòng?
5. Tôn giả, xin thưa, nếu chính con
Tự tay lấy nước ở dòng sông, Nước liền thành máu, và vì thế Con khẩn cầu ngài chút nước trong.
6. Ngày xưa đã phạm ác hành nào
Do khẩu, ý, thân đã phạm vào, Từ nghiệp quả gì tay ấy chạm Nước sông Hằng hóa máu, vì sao?
7. Nam tử của con, Ut-ta-ra,
Xưa vốn là cư sĩ tại gia Ðem cúng các Sa-môn thực phẩm, Tọa sàng, dược liệu, áo cà-sa. 8. Lòng con sôi động bởi xan tham Thúc giục, nên con phỉ báng chàng: "Bất cứ vật gì ta chẳng muốn Ngươi đem dâng cúng các Sa-môn, 9. "Ut-ta-ra, thứ ấy, ta cầu Thành máu cho ngươi ở kiếp sau". Do nghiệp quả này, tay chạm phải Nước sông Hằng hóa máu từ lâu".
1. Thiếp đem dâng cúng thuở xưa xa
Lên một Tỷ-kheo đã xuất gia Vừa bước đến gần, xin ít chỉ. Việc xưa đem kết quả nay là Phước phần thiếp hưởng luôn phong phú, Vô số thiên y cứ hiện ra. 2. Muôn hoa bao phủ cả lâu đài, Gia bộc, nô tỳ đủ gái trai, Tô điểm lâu đài trăm vẻ đẹp; Thiếp nay tận hưởng thú vui chơi Và mang đủ loại thiên y báu, Tài sản dồi dào chẳng thể vơi. 3. Phước báo này do một nghiệp xưa, Hân hoan, hạnh phúc hưởng bây giờ; Khi nào thiếp trở về nhân thế, Thiếp sẽ thực hành việc lợi tha. Chàng hãy đưa đường xưa lối cũ, Phu quân hỡi, thiếp muốn về nhà.
4. Ðã bảy trăm năm nàng đến đây,
Về kia già yếu khổ thân ngay. Nay ta nói thật cho nàng biết: Tất cả họ hàng đã bỏ thây. Nàng sẽ làm gì nơi chốn ấy Khi nàng đã giã biệt nơi này? Nàng ấy không tin, lại nói nữa: 5. Chỉ cách bảy năm thiếp đến đây, Hưởng bao thiên lạc bấy lâu nay, Khi nào thiếp trở về nhân thế, Thiếp sẽ thực hành thiện sự ngay. Chàng hãy đưa đường xưa lối cũ, Phu quân hỡi, thiếp muốn chia tay. 6. Thế rồi lập tức nắm tay chàng, Thần dẫn nàng về chốn cố hương, Nay hóa bà già đi khập khểnh, Bảo bà: "Dặn với các thân nhân Ðến nơi kia: Hãy làm điều thiện, Hạnh phúc đời sau được hưởng phần".
7. Chính mắt ta trông thấy rõ ràng
Các loài ngạ quỷ gặp đau buồn Bởi vì không biết làm điều thiện, Cũng vậy loài người giữa thế gian. Hành thiện tạo nên nhiều phúc lạc, Thiên thần, nhân loại mãi hân hoan
1. Ðây vàng ròng đúc các cầu thang
Nằm dựa lên trên dải cát vàng, Diễm lệ, ngát hương hoa súng trắng, Gây niềm lạc thú tận tâm can. 2. Bao cây làm thảm phủ trên hồ, Theo gió đủ mùi hương thoảng đưa, Hồ mọc tràn đầy sen đỏ thắm Ðiểm tô sen trắng nỏn cành tơ. 3. Lay động theo làn gió nhẹ nhàng Mặt hồ kỳ thú tỏa hương lan, Âm vang với tiếng thiên nga, hạc, Văng vẳng hồng nga hót gọi đàn. 4. Ðây các bầy chim đủ mọi loài, Ngân nga bao tiếng hót êm tai, Cây trồng sanh quả tiên phong phú, Rừng mọc kỳ hoa ở khắp nơi. 5-6. Thành phố như đây thật tuyệt vời Khó tìm thấy ở cõi người đời. Nàng nhiều cung điện bằng vàng bạc, Lấp lánh bốn phương chiếu sáng ngời. Lại có năm trăm tỳ nữ ấy Sẵn sàng phục vụ lệnh nàng thôi. 7. Bọn chúng mang vòng ốc, vỏ trai, Ðiểm trang y phục dệt vàng tươi, Nàng nhiều sàng tọa bằng vàng bạc Ðưọc trải da dê quý phía ngoài. 8. Tất cả đều chu đáo sẵn sàng, Bên trong được phủ với chăn màn Dệt bằng lông thú, khi nằm xuống, Nàng thọ hưởng bao nỗi lạc hoan. 9. Tuy nhiên, khi đến nửa đêm khuya, Nàng thức dậy và cất bước ra Ði tới hoa viên đầy lạc thú Bao quanh hồ nước phủ liên hoa. 10. Bên bờ nàng đứng lại soi mình, Tiên nữ ở trên thảm cỏ xanh, Bỗng một chó ngao tai cắt cụt Vồ nàng xé xác đến tan tành. 11. Khi nàng đã bị nát toàn thân, Và đã biến thành một bộ xương, Nàng vội nhảy vào hồ nước biếc, Hình hài trở lại đẹp muôn phần. 12. Thân thể nàng nay đã vẹn toàn, Cực kỳ diễm lệ, đóa hồng nhan, Ðiểm trang đủ thứ thiên y đẹp, Nàng đến cho ta diện kiến nàng. 13. Ngày xưa nàng phạm ác hành nào Do khẩu, ý, thân đã phạm vào, Con chó cụt tai nay xé xác Bởi vì quả báo tội gì sao?
14. Ngày xưa ở xứ Kim-bi-la,
Có một nam cư sĩ tại gia, Ðệ tử với tâm thành mộ đạo, Thiếp là ác phụ nghiệp gian tà. 15. Bởi vì thiếp phạm tội dâm loàn, Chồng của thiếp lên tiếng hỏi han: "Nàng đã tạo ra điều bất xứng Là không tiết hạnh với chồng nàng". 16. Thế rồi thiếp phải nói lời thề Giả dối tràn đầy khủng khiếp kia: "Thiếp chẳng dám lừa chàng việc ấy, Dù thân hay ý cũng chưa hề. 17. Song nếu thiếp vi phạm việc này Dù thân hay ý bấy lâu rày, Thì mong con chó ngao tai cụt Cắn xé thiếp tan nát cả thây". 18. Thiếp từng chịu đựng bảy trăm năm Quả báo do tà hạnh, dối gian, Từ ấy, chó ngao tai cắt cụt Xé thân từng mảnh thật kinh hoàng.
19. Quân vương thần lực thật cao cường,
Ngài đã đến đây cứu quỷ nương, Ðược thoát chó ngao tai cụt ấy, Thiếp không còn sợ hãi, đau buồn. 20. Quân vương, thiếp kính cẩn tôn sùng Ðảnh lễ cầu xin đấng chúa công Hãy thọ hưởng thần tiên lạc thú, Quân vương và thiếp hãy vui chung.
21. Ta đã hưởng bao thú cõi tiên,
Cùng nàng hoan lạc thật vô biên, Giờ đây, tiên nữ, ta mong ước, Mau hãy đem ta trở lại liền.
1. Brah-ma-dat, đại đế ngày xưa,
Chúa tể của dòng Pan-ca-la, Sau khoảng ngày đêm cai trị nước, Mạng chung, đại đế đã băng hà. 2. Hoàng Hậu Ub-ba-rì khóc hoài, Lên đàn tế lễ hỏa thiêu ngài, Dù không còn thấy hình tiên đế, Bà vẫn gào: "Brah-ma-dat ôi! 3. Ðến nơi kia một vị hiền nhân, Bậc Thánh đầy đức hạnh chánh chân, Vào dịp lễ tang, ngài muốn hỏi Những người đang tụ tập quây quần: 4. "Dàn hỏa táng ai chết thế này? Các vòng hoa tỏa ngát hương bay, Vợ ai đang khóc chồng nàng vậy? Người ấy là ai quá vãng đây? Dù chẳng thấy đâu người đã khuất, Nàng gào: "Brah-ma-dat thương thay!" 5. Những người đang ở đó thưa liền: "Hoàng Hậu là đây, chính vợ hiền; Cầu phúc phần ngài, thưa Thánh giả, Cầu vua Brah-ma-dat thăng Thiên". 6. Ðây là dàn hỏa táng thi hài Tỏa ngát hương bay khắp mọi nơi. Hoàng Hậu là đây đang khóc lóc Tiên vương vừa khuất bóng trên đời, Dù không còn thấy ngài đâu nữa, Bà khóc: "Brah-ma-dat hỡi ôi!"
7. "Tám vạn sáu ngàn người bấy lâu
Tên Brah-ma-dat cũng như nhau, Ðược thiêu trong nghĩa trang này vậy; Vì kẻ nào nàng phải khổ đau?"
8. Tôn giả, con thương tiếc chúa công
Cù-la-ni đế, chính con dòng, Làm vua bộ tộc Pan-ca ấy, Người đã ban con mọi ước mong.
9. Tất cả những ai được gọi là
Brah-ma-dat cũng đã làm vua, Ðều là con của Cù-la đế, Chúa tể của dòng Pan-ca-la. 10. Sanh tử dòng kia cứ chuyển vần, Nàng làm hoàng hậu đã bao lần, Sao nàng quên lãng bao chồng cũ, Và chỉ tiếc thương vị cuối cùng?
11. Chính vì con có phận hồng nhan,
Tôn giả, từ xưa, vậy phải chăng Mọi việc theo dòng đời tiếp diễn, Mà ngài cất tiếng để khuyên răn?
12. Nàng đã từng làm một nữ nhân,
Nam nhi, thú vật, biết bao lần, Ðiều này chẳng thấy đâu biên giới Với việc tái sanh ở cõi trần.
13. Lòng con quả thật nóng bừng
Như là sữa lạc đổ trong lửa đào, Ngài vừa tưới nước lạnh vào Giờ đây con dứt biết bao khổ sầu. 14. Chính ngài nhổ mũi tên đau Nỗi ưu phiền đã cắm sâu vào lòng. Xua tan mọi nỗi thương tâm Sầu tư nặng trĩu, khóc thầm quân vương. 15. Giờ đây trút bỏ đau buồn, Lòng con lắng dịu, trí thường bình an, Con không còn phải khóc than Sau khi nghe những lời vàng ngài răn.
16. Khi nàng nghe được các lời ca
Ðáng cảm phục từ bậc xuất gia, Nàng đắp chiếc y, cầm lấy bát, Ra đi theo cuộc sống không nhà. 17. Khi giã từ nhà, cất bước lên Ði vào cuộc sống giữa thiên nhiên, Nàng liền tu tập tâm từ ái, Ðể được tái sanh cõi Phạm thiên. 18. Nàng đã viễn du mọi xóm làng, Kinh thành, thị trấn, các hoàng cung, Ưu-lâu-tần ấy là tên gọi Thôn xóm nàng thân hoại mạng chung. 19. Khi nàng đã phát triển từ tâm Ðể được tái sanh ở Phạm cung, Nàng đã đoạn trừ tâm nữ giới, Trở thành một vị Phạm thiên thần. PHẨM III PHẨM TIỂU
1. Ngươi chẳng bị chìm xuống nước sông,
Ngươi đi trên mặt nước sông Hằng, Thân mình trần trụi, và tuy thế, Người đội vòng hoa khéo điểm trang, Như thể thoát ly thân phận quỷ, Ngươi đi đâu đó, ở đâu chăng?
2. Ngạ quỷ đáp lời: "Tôi sẽ đi
Về thôn làng cũ Cun-dat-thi, Giữa nơi đây với Và-sa phố, Kế cận Ba-la-nại sá gì! 3. Khi ấy, đại thần nổi tiếng kia, Người mang danh hiệu Ko-li-ya, Ðem cho ngạ quỷ phần cơm chín, Một bộ áo và bánh mạch nha. 4. Ngừng chiếc thuyền kia, vị đại thần Bảo tìm người hớt tóc cúng dâng, Khi người hớt tóc dùng đồ cúng, Ngạ quỷ hưởng ngay quả phước ân. 5. Tức thì quỷ phục sức cao sang Mang đủ vòng hoa khéo điểm trang, Ngạ quỷ đứng nơi kia hưởng thọ Lễ dâng cúng tạo phước ân tràn, Vì duyên cớ ấy ta nên cúng Cho ngạ quỷ vì biết xót thương.
6. Một bọn mang đầy giẻ rách bung,
Bọn kia lấy tóc để che thân, Cả bầy ngạ quỷ tìm lương thực, Lang bạt đi quanh quẩn khắp vùng. 7. Ra đi tìm kiếm xứ xa xôi, Song chẳng nhận đâu được miếng mồi, Ðói khát trở về nằm bất tỉnh, Ngã nhào xuống đất trốn đi thôi. 8. Một bọn ngã nằm xuống đất dơ, Chúng không làm thiện nghiệp ngày xưa, Chúng trông như thể đang thiêu đốt Vì lửa hạ và cất tiếng thưa: 9-10. "Xưa là ác phụ mẫu trong nhà, Chẳng tạo nơi an trú chúng ta Qua các việc thi ân bố đức, Dù nhiều thực phẩm được quăng xa, Chúng ta đã chẳng đem phân phát Cho những đoàn du sĩ xuất gia. 11. Trong lúc muốn làm việc ác gian, Biếng lười, bướng bỉnh, lại tham ăn, Chúng ta cho chút phần thừa thải Và phỉ báng người được phát ban. 12. Nô tỳ và sản nghiệp toàn gia, Ngay cả đồ trang sức ngọc ngà, Giờ đây phục vụ bao người khác, Ðau buồn giành lại số phần ta. 13. Những người đan giỏ đáng chê bai, Những kẻ đóng xe bị đọa đày, Những bọn tắm thuê cho kẻ khác, Chiên-đà hạ đẳng, đám ăn mày. 14-15. Trong nhà hạ liệt, bọn cùng đinh Như vậy, bọn này được tái sanh, Ấy phận dành cho người biển lận; Còn người xưa tạo nghiệp an lành, Là người bố thí, tay hào phóng, Chiếu sáng vườn Thiên lạc hiển vinh. 16. Hưởng thọ bao hoan lạc cõi trời, Họ làm chúa tể các lâu đài, Từ đây họ tái sanh cao quý, Giữa các phú gia ở cõi người. 17. Trong nhà nóc nhọn có nhiều tầng, Ngay cả hoàng cung, với tọa sàng Bao phủ chăn màn lông thú quý, Những người đã nhiếp phục điều thân, Tái sanh vào các nhà lương thiện, Ðầy đủ tiện nghi giữa thế nhân, Tay của mỗi người cầm chiếc quạt Ðược làm bằng các sợi lông công. 18. Bất cứ nơi nào họ bước ra, Họ đều điểm ngọc với cài hoa; Gia nhân hộ tống ngay bên cạnh, Tìm đủ thú vui sáng tối mà. 19. Nan-da-ra, Hỷ lạc Viên này Không phải để dành cho những ai Chẳng tạo tác nên nhiều phước nghiệp, Mà dành riêng biệt để cho người Ðã hoàn thành được nhiều công đức, Là Ðại Lâm Viên của cõi trời Tam thập tam thiên đầy lạc thú, Không vì phiền não, mãi vui tươi. 20. Chẳng đời này hoặc cõi đời sau Hạnh phúc dành cho những kẻ nào Không tạo tác nên nhiều phước nghiệp, Song đời này lẫn cõi đời sau Ðể dành hạnh phúc cho bao kẻ Làm các thiện hành phước nghiệp cao. 21. Vậy những ai mong chúng bạn hiền, Phải hoàn thành thiện nghiệp tinh chuyên, Bởi vì người tạo nhiều công đức Hưởng lạc thú nhiều ở cõi thiên.
1. Có vì Trưởng lão ở Kun-di,
Trú tại núi Sà-nu-và-si, Ðiều phục các căn, người khổ hạnh, Pot-tha-pà ấy chính danh kia. 2. Em trai, cùng với mẹ và cha, Khốn khổ thần dân cõi Dạ-ma, Vì tạo ác hành trong kiếp trước, Từ đời này đã hóa ra ma. 3. Ở nơi đọa xứ, ốm trơ xương Như chiếc kim, lao nhọc, ở truồng, Hốc hác, lo âu, đầy sợ hãi, Chúng không còn có vẻ hung tàn. 4. Có chú em kia vội bước chân, Cô thân trên nẻo vắng, mình trần, Quỳ tay chân xuống như thùng nước Trước Trưởng lão này, quỷ hiện thân. 5. Bấy giờ Trưởng lão chẳng quan tâm, Lặng lẽ người đi, cất bước chân, Song ngạ quỷ liền cho Trưởng lão Biết ngay sự việc, vội thưa rằng: "Tôi là em của ngài tiền kiếp, Ðã đọa vào loài quỷ đói ăn. 6. Kính thưa Tôn giả, mẹ cùng cha Khốn khổ, thần dân cõi Dạ-ma. Vì tạo ác hành trong kiếp trước, Từ đời này đã hóa ra ma. 7. Ở nơi đọa xứ ốm trơ xương Như chiếc kim, lao nhọc, ở truồng, Hốc hác, lo âu, đầy sợ hãi, Chúng không còn có vẻ hung tàn. 8. Xin hãy từ bi, hãy xót thương, Cúng dường hồi hướng đến vong nhân. Phước phần nhờ lễ ngài dâng cúng Những kẻ hung tàn được miếng ăn". 9. Khi Trưởng lão này với chúng Tăng Mười hai vị khất thực quanh vùng, Thế rồi tụ tập cùng nơi chốn, Mục đích là chiêu đãi bữa ăn. 10. Tỷ-kheo bèn nói với chư Tăng: "Xin hãy cho tôi tất cả phần Ðã nhận, để tôi dâng Giáo hội, Vì thương xót quyến thuộc thân nhân". 11. Chúng Tăng giao thực phẩm cho người, Trưởng lão dâng trai phạn thỉnh mời, Trong lúc cúng dường phần thực phẩm, Người đem công đức hướng về nơi Song thân, tiểu đệ và cầu nguyện: "Mong quyến thuộc nay hưởng phước trời". 12. Lập tức sau khi chuyển phước phần, Cao lương liền xuất hiện dần dần Ngon lành, thịnh soạn, đầy hương vị, Sau đó chú em của Thánh Tăng Ðã trở thành chàng trai tuấn tú, Tráng cường, hạnh phúc, lại thưa rằng: 13. "Tôn giả, xin thưa, các thức ăn Giờ đây phong phú, hãy nhìn trông, Chúng tôi trần trụi, xin cầu nguyện Mong ước sao cho đủ áo quần". 14. Khi giẻ rách người đã lượm xong Từ trong đống rác ở bên đường, Người may giẻ rách thành y phục Dâng cúng Tỷ-kheo khắp bốn phương. 15. Trong lúc người làm lễ cúng dâng, Tỷ-kheo hồi hướng đến thân nhân Phước phần lễ vật này mang đến Cha mẹ, chú em, ước nguyện rằng: "Mong lễ vật này cho quyến thuộc Họ hàng được hưởng trọn hồng ân". 16. Lập tức sau khi chuyển phước phần, Xiêm y liền xuất hiện dần dần; Thế rồi phục sức xiêm y đẹp, Chàng hiện nguyên hình trước Thánh Tăng: 17. "Xin thưa, ở quốc độ Nan-da, Các thứ mền chăn quả thực là Phong phú, song còn hơn thế nữa, Áo quần, màn phủ ở quanh ta. 18. Chúng làm bằng lụa hoặc bằng lông, Bằng vải dày hay các sợi bông, Chúng thật dồi dào và quý báu, Ðang treo lơ lửng giữa hư không. 19. Y phục chúng tôi nay cứ mang Thứ gì yêu quý tận tâm can, Kính thưa Tôn giả, xin cầu nguyện Cho chúng tôi nhà để trú an". 20. Trưởng lão liền xây một thảo am Cúng dường lên cả tứ phương Tăng, Ngay khi dâng lễ, người cầu nguyện Công đức chuyển cho cá họ hàng. 21. Lập tức sau khi chuyển phước phần, Cửa nhà liền xuất hiện dần dần, Có nhiều tòa lớn xây lầu các, Thiết kế đầy cân xứng mọi tầng.
22. "Nhân giới không sao có loại nhà
Cao sang tốt đẹp giống như ta, Những lâu đài thấy trên thiên giới Cũng giống nhà ta có đấy mà! 23. Rực rỡ huy hoàng khắp mọi nơi Lâu đài chiếu sáng bốn phương trời; Giờ đây, Tôn giả, xin cầu nguyện Cho chúng tôi đầy nước uống thôi". 24. Trí giả đổ đầy thùng nước trong, Rồi đem dâng cúng tứ phương Tăng, Ngay khi làm lễ, người cầu nguyện Công đức chuyển cho các họ hàng. 25. Lập tức sau khi chuyển phước phần, Nước trong liền xuất hiện dần dần, Có bốn hồ sen sâu thăm thẳm Xây dựng đầy cân xứng tuyệt trần. 26. Nước hồ trong vắt đến bên bờ Mát lạnh mùi hương nhẹ thoảng đưa, Bao phủ toàn sen xanh, đỏ thắm, Tràn đầy hoa súng với cành tơ. 27. Sau khi tắm rửa, uống vừa xong, Chúng lại hiện lên trước Thánh Tăng: "Tôn giả, chúng tôi nhiều nước lắm, Song chân cẳng lại bị đau rần. 28. Trong lúc quẩn quanh ở mọi nơi, Ngã nhào trên sỏi đá, cây gai, Kính thưa Tôn giả, xin cầu nguyện Cho được chiếc xe chở chúng tôi". 29. Trưởng lão cầm lên một chiếc hài Cúng dâng Giáo hội bốn phương trời, Trong khi làm lễ người cầu nguyện "Mong quyến thuộc nay được thảnh thơi". 30. Lập tức sau khi chuyển phước lành, Cả bầy ngạ quỷ hiện nguyên hình Trên xe tiến đến đồng thanh nói: "Tôn giả từ bi với chúng sanh. 31. Nhận được xiêm y thực phẩm rồi Ngôi nhà, nước uống, chiếc xe ngồi, Tôn giả, chúng tôi xin kính lễ Bậc Thánh từ bi giữa cõi đời".
1. Nàng đi lên đến một lâu đài
Có cột trụ xanh biếc sáng ngời Kiểu cách muôn màu, phong phú quá, Ở đây tiên nữ thật hùng oai, Trông nàng chẳng khác vầng trăng sáng Vằng vặc tròn quay ở giữa trời. 2. Da nàng quả thật giống vàng ròng, Hình dáng huy hoàng đẹp mắt trông, An tọa trên ngai cao tột đỉnh, Cô đơn vì thiếu bóng lang quân. 3. Chung quanh nàng có đủ hồ sen, Nhiều loại hoa sen trắng mọc chen, Cát phủ đáy hồ, quanh bến nước Bằng vàng, chẳng thấy lấm bùn đen. 4. Thiên nga xinh đẹp thỏa lòng mơ, Bơi lội chung quanh mặt nước hồ; Khi tụ họp, kêu ầm ỷ quá, Vui tai như tiếng trống rung to. 5. Huy hoàng rực rỡ bóng thuyền quyên, Nàng dựa mình trên một chiếc thuyền, Mí mắt vòng cung đang tỏa sáng, Giọng cười, tiếng nói thật êm đềm, Tứ chi nàng thập phần thanh lịch, Nàng rạng ngời trong vẻ diệu huyền. 6. Lầu các nàng không chút bụi trần, Có vườn tiên lạc thú vô ngần, Hiện thân hạnh phúc gia tăng mãi, Ðang đứng ở trên khoảng đất bằng, Tiên nữ có dung nhan tối thắng, Ta mong hưởng lạc thú cùng nàng.
7. Làm nghiệp nào mang quả đến đây,
Trí chàng hãy hướng đến nơi này, Hoàn thành những nghiệp nào sanh quả Có thể nhận ra ở chốn này. Nhờ cách ấy, sau chàng sẽ được Thiếp là tiên nữ thích vui vầy.
8. "Mong vậy!" Chàng trai vội đáp lời,
Rồi chàng tạo các nghiệp trên đời Phát sinh kết quả về nơi nọ, Khi đã làm xong phước nghiệp rồi, Chàng được tái sanh vào chốn ấy Cùng nàng bầu bạn cảnh bồng lai.
1. Tên này ăn trấu, nọ ăn rơm,
Trong lúc ngươi ăn phẩn đáng nhờm, Còn nữ quỷ này ăn thịt nó, Quả gì nghiệp ấy thật kinh hồn?
2. Tên này đánh mẹ thuở xưa xa,
Tên nọ bán buôn chẳng thật thà, Còn nữ quỷ này ăn thịt nó, Ðánh lừa với vọng ngữ gian tà. 3. Khi được làm người giữa chúng sanh, Tôi là người vợ, chủ gia đình, Ðem tài sẳn giấu người chân chánh, Cũng chẳng hề cho chút để dành. Tôi đã giấu che bao của cải, Còn buông lời dối trá gian manh: "Nếu tôi cất giấu gì trong đó, Thì phẩn là lương thực của mình". 4. Do kết quả từ việc trước đây, Cùng lời dối trá của tôi vầy, Bữa cơm tôi có mùi ngon ngọt Ðã hóa thành phân thối thế này. 5. Hành nghiệp nào đều có quả mang, Vì hành nghiệp chẳng tự tiêu tan, Nên tôi ăn uống phân dơ bẩn Giòi bọ hôi tanh thật đáng nhàm.
1. Kỳ diệu thay tri kiến Phật-đà,
Cách Ngài tiên đoán nghiệp người ta, Bao người đã tạo nên công lớn, Lắm kẻ ít gây thiện nghiệp mà. 2. Cậu bé bị quăng bỏ nghĩa trang, Bú tay, sống sót cả đêm trường, Không thần hay rắn làm thương tổn, Vì phước nghiệp từ kiếp trước mang. Bầy chó liếm đôi chân cậu bé, Quạ diều, sơn cẩu chỉ đi ngang. 3. Ðàn chim đã tẩy sạch đồ dơ, Bầy quạ lau đôi mắt trẻ thơ, Chẳng có người chăm lo bảo hộ, Cũng không hương cải, thuốc đem cho. 4. Chúng chẳng biết đâu đến mặt trăng Kết giao với nguyệt điện, cung Hằng, Cũng không rải hạt cầu may mắn Cho trẻ đọa trong cảnh khốn cùng, Ðã bị mang đi đêm tối nọ, Quăng vào nghĩa địa ở trong rừng. 5. Hài nhi ấy được cả chư thần Ðảnh lễ, cùng bên các thế nhân Thấy trẻ cựa mình như một đống Sanh tô, trong cảnh ngộ nguy nan, Chỉ còn sức sống thêm đôi chút Khi Ðại Trí Nhân thấy, bảo rằng: "Ðứa trẻ này nhờ tài sản lớn Sẽ thành đại phú hộ trong vùng".
6. Hạnh nguyện nào đây của trẻ thơ?
Tu hành gì cuộc sống bây giờ? Vì sao thiện nghiệp này sanh quả, Khi họa như vầy đã xảy ra Cho trẻ, rồi ngày sau hưởng thọ Uy quyền đầy phú quý vinh hoa?
7. Những người kia đã cúng Tăng-già,
Với thượng thủ là Ðức Phật-đà, Dịp ấy, trẻ không đồng ý kiến Buông lời thô lỗ, chẳng ôn hòa. 8. Từ khi xua đuổi ý như trên, Hỷ lạc về sau, trí thản nhiên, Dâng cúng suốt tuần phần cháo gạo Ðức Như Lai trú tại Kỳ Viên. 9. Ấy nguyện đời xưa của trẻ thơ, Còn đời tu tập chính bây giờ, Thiện hành kia đã mang thành quả, Khi họa như vầy đã xảy ra Cho trẻ, rồi về sau hưởng thọ Uy quyền đầy phú quý vinh hoa. 10. Chàng sống đời trường thọ bách niên, Hưởng bao niềm lạc thú vô biên, Ðến khi hủy hoại thân phàm tục, Ðược tái sanh đồng trú cõi thiên.
1. Trần truồng và xấu xí hình dung,
Hốc hác, và thân thể nổi gân Người ốm yếu, xương sườn lộ rõ, Ngươi là ai hiện đến đây chăng?
2. Tôn giả, con là ngạ quỷ nương,
Thần dân khốn khổ của Diêm Vương, Vì con đã phạm hành vi ác, Con đến cõi ma đói ẩn thân.
3. Ngày xưa đã phạm ác hành gì
Do khẩu, ý, thân đã thực thi? Vì hạnh nghiệp nào ngươi đã tạo Từ đây tới cảnh giới âm ty?
4. Con đã đi quanh bến tắm công,
Lang thang suốt cả nửa tuần trăng. Mặc dù bố thí là công đức, Con chẳng cho mình chỗ trú thân. 5. Khi con khát nước, đến dòng sông, Sông nước trở thành bãi trống không; Những lúc nắng, con ngồi bóng mát, Tàng cây lại hóa nóng bừng bừng. 6. Cơn gió như thiêu đốt, lửa hồng, Thổi ào lên khắp cả thân con, Nhưng con xứng đáng nhiều đau khổ Hơn thế này, Tôn giả đoái thương. 7. Xin Tôn giả đến Hat-pu-ra, Và kể chuyện ngay với mẹ già: "Ta đã thấy con bà thuở trước, Thần dân khốn khổ cõi Diêm-la. Vì nàng đã phạm hành vi ác, Từ cõi đời đi đến cõi ma". 8. Giờ đây con có món tư trang Ðể dành lên đến bốn trăm ngàn, Con không hề nói cho ai biết, Con đã giấu ngay dưới tọa sàng. 9. Xin mẹ con dâng lễ cúng dường, Phước phần hồi hướng đến tên con, Chúc bà được sống đời trường thọ; Khi mẹ con dâng lễ cúng dường, Hồi hướng về con phần phước đức, Thỏa nguyền, con hạnh phúc hân hoan".
10. Người ấy thuận lòng, vội nói ra:
"Ðược rồi!" và đến Hat-pu-ra, Nói: "Ta đã thấy con bà đó, Khốn khổ, thần dân cõi Dạ-ma. Vì đã tạo nên điều ác nghiệp Từ đời này đến cõi tà ma". 11. Dịp kia, nàng đã bảo cùng ta: "Xin kể chuyện ngay với mẹ già: Ta đã thấy con bà thuở trước Thần dân khốn khổ cõi Diêm-la. Vì nàng đã phạm hành vi ác, Từ cõi đời đi đến cõi ma". 12. Giờ đây nàng có món tư trang Ðể dành lên đến bốn trăm ngàn, Nàng không hề nói cho ai biết Nàng đã giấu ngay dưới tọa sàng. 13. Xin mẹ nàng dâng lễ cúng dường, Phước phần hồi hướng đến cho nàng, Chúc bà được sống đời trường thọ; Khi mẹ nàng dâng lễ cúng dường, Hồi hướng về nàng phần phước đức, Thỏa nguyền, nàng hạnh phúc hân hoan". 14. Do vậy, bà dâng lễ cúng dường Phước phần hồi hướng đến tên nàng, Tức thì nữ quỷ liền an lạc, Hạnh phúc, dung nhan đẹp lạ thường!
1. Chàng nay là một đấng nam nhi,
Hầu cận đủ nô bộc, nữ tỳ, Ðêm tối, sáng ngời bao dục lạc, Ban ngày phải chịu lắm sầu bi, Như vầy do ở trong tiền kiếp Chàng đã tạo nên các nghiệp gì? Quỷ này giải thích các nghiệp đã làm: 2. Trong thành Vương Xá, nước non xinh, Xưa tại Ða Sơn, cảnh hữu tình, Tôi kẻ săn nai, lòng độc ác Với bàn tay vấy máu vì mình. 3. Giữa loài vô hại ở trong rừng Tôi quẩn quanh với trí bạo hung, Luôn thấy lạc hoan khi giết hại Những con vật ấy, thật buông lung. 4. Mặc dù tôi bản tính như vầy, Tôi có bạn thân thiết lắm thay, Cư sĩ tại gia lòng mộ đạo Tín thành, lân mẫn với tôi đây, Cản ngăn tôi, đã nhiều lần nói: "Ðừng tạo hành vi ác thế này". 5. "Bạn hỡi, đừng nên tạo ác hành, Sợ rằng sẽ gặp cảnh không lành, Nếu mong hạnh phúc khi thân hoại, Ðừng thích thú vì việc sát sanh". 6. Mặc dù nghe lý lẽ khuyên can Của chính người đây, một bạn vàng Thương xót, mong tôi nhiều hạnh phúc, Tôi không tuân Giáo pháp hoàn toàn, Vì từ lâu đã tìm vui thú Việc ác, nên không có trí quang. 7. Lần nữa, chính là bậc trí nhân Xót thương, dạy bảo phải điều thân: "Ban ngày nếu sát sanh", chàng dặn, Ðêm tối, phải điều phục phát tâm!". 8. Vì vậy ban ngày tôi sát sanh, Về đêm, tôi chế ngự thân mình, Giờ đây, dạo bước trong đêm tối, Nhưng sáng ngày tôi chịu khổ hình. 9. Nhờ thiện hành, tôi hưởng một đêm Với bao lạc thú của thần tiên; Ban ngày bầy chó ngao ùa tới, Nhảy vọt khắp nơi xé xác liền! 10. Những người nào nhất mực tinh cần, Lời Thiện Thệ tuân thủ quyết tâm, Sẽ đạt vẹn toàn Bất tử giới, Niết-bàn, là trạng thái siêu nhân.
1. Trong tòa cao ốc, một lâu đài,
Trên tọa sàng, lông thú phủ ngoài, Năm thứ đàn tơ đang nhẹ trổi, Lòng chàng thích thú nhạc êm tai. 2-3. Ban ngày vào lúc mới hừng đông, Chàng bị đuổi ra tận nghĩa trang, Và phải chịu bao điều thống khổ, Nghiệp nào đã tạo ác về thân, Về lời, hay ý trong tiền kiếp, Nay chịu khổ này có phải chăng? Sau đó quỷ liền kể chuyện sau: 4. Trong thành Vương Xá thật xinh tươi, Cổ lũy Ða Sơn cảnh tuyệt vời, Tôi chính thợ săn trong kiếp trước, Buông lung, tôi thích thú vui chơi. 5. Mặc dù tôi bản tính hung tàn, Tôi có bạn thân, cận sự nam, Mộ đạo, tín thành, thường đón tiếp Tỷ-kheo, đệ tử đức Cồ-đàm, Viếng thăm gia quyến; chàng thương xót Ngăn cản tôi, và vẫn bảo ban:
1. Ngươi đội tràng hoa, miện, vòng vàng,
Tứ chi ngươi tẩm ướt chiên-đàn, Trông ngươi có dáng đầy thanh thản, Ngươi giống mặt trời rực ánh quang. 2-3. Ðoàn thị nữ này hộ tống ngươi, Mười ngàn tiên nữ rất xinh tươi Ðeo vòng vỏ ốc và trang điểm Tấm lưới vàng kia lấp lánh hoài, Hình dáng ngươi gây niềm cảm phục, Ngươi đầy quyền lực thật hùng oai. 4. Tay ngươi móc thịt ở lưng ăn, Ác nghiệp nào do khẩu, ý, thân Ðã tạo? Giờ đây ngươi cấu xé Thịt lưng mình bởi nghiệp nào chăng? Quỷ này kể chuyện mình qua bốn vần kệ: 5. Tôi hành động giữa cõi phàm trần Ðem tổn hại cho chính bản thân Bằng cách vu oan và vọng ngữ, Dối lừa và phỉ báng tha nhân. 6. Tại đó, xưa tôi họp việc chung Ðến khi tôi phải nói chân ngôn, Thì tôi bài bác điều công chánh, Và lại quay về việc dối gian. 7. Vậy người nào phỉ báng tha nhân Sẽ phải tự mình xé nát thân, Như chính hôm nay tôi phải chịu Tự mình lấy thịt ở lưng ăn. 8. Nà-ra-da đã thấy điều này: Bi mẫn là người nói thẳng ngay. Ðứng phỉ báng, buông lời dối trá, E ngài sẽ xẻ thịt lưng vầy!
1. Ngươi đang lơ lững giữa hư không,
Ngươi thở mùi hôi thối nặc nồng, Sâu bọ đang đua nhau cấu xé Mặt người rách nát thối vô cùng. 2. Ngày xưa ngươi phạm ác hành nào, Nay chúng cầm gươm mãi chém vào, Chúng rảy cường toan khắp cả mặt, Thân ngươi, rồi cắt mãi, vì sao? 3. Ngươi đã làm nên ác nghiệp gì Do từ thân, khẩu, ý tư duy? Hành vi nào kiếp xưa gây tạo, Nay phải chịu đau khổ cực kỳ?
4. Trong thành Vương Xá thật xinh tươi,
Cổ lũy Ða Sơn, cảnh tuyệt vời, Tôn giả, tôi là người đại phú Bạc vàng thóc lúa khắp nơi nơi. 5. Vợ tôi, con gái, vợ con trai Ðem đủ sen xanh, các đóa lài, Cùng với dầu thơm dâng bảo Tháp, Tôi ngăn cản họ mãi không thôi. Ðó là ác nghiệp ngày xưa ấy Ðã được tạo ra bởi chính tôi. 6. Tám vạn sáu ngàn bọn chúng tôi Chịu bao đau khổ chẳng riêng ai, Vì tôi khinh việc người dâng cúng Bảo Tháp, nay tôi chịu khổ hoài. 7. Vậy người nào lộ vẻ hung tàn, Khi Thánh lễ đang được cúng dường Lên bảo Tháp tôn vinh xá-lợi, Xin Tôn giả cất tiếng khuyên can. 8. Tôn giả nhìn kìa đám mỹ nương Ðeo vòng hoa đẹp khéo trang hoàng, Hưởng nhiều phước báo vì dâng lễ, Phú quý vinh hoa thật rỡ ràng. 9. Khi các trí nhân thấy việc này Gây niềm cảm xúc, diệu kỳ thay, Họ liền sùng bái và tôn kính Bậc đại hiền nhân ấy chính ngài. 10. Khi tôi rời cảnh ngộ thương đau, Và được làm người ở kiếp sau, Tôi sẽ tinh cần dâng lễ bái Cúng dường Tháp xá-lợi dài lâu. PHẨM IV PHẨM ÐẠI
1. Kinh thành dân chúng xứ Vaj-ji,
Tên gọi là thành Tỳ-xá-ly, Tại đó có vì vua ngự trị, Am-ba-sa, tộc Lic-cha-vi, Khi nhìn thấy quỷ ngoài thành ấy, Vua muốn biết, nên hỏi tức thì: 2. "Kẻ này không có chỗ nằm ngồi, Cùng chẳng hề đi tới, bước lui, Không thức uống ăn, quần áo mặc, Cũng không tỳ nữ, một mình thôi. 3. Quyến thuộc thân bằng thuở đã qua Có lòng thương xót nó bây giờ, Song không có khả năng nhìn nó, Họ đã bỏ rơi nó thật mà. 4. Kẻ nào sa sút chẳng thân bằng, Bạn bỏ rơi khi thấy khốn cùng, Hễ thấy phồn vinh, vây lấy bạn, Người đang hưng thịnh, lắm thân nhân. 5. Khi hưởng thụ xong hết bạc vàng, Gia tài chắc đã phải tan hoang, Thân hình vấy máu đang rời rã Như hạt sương treo, đến số tàn. 6. Với người đang chịu cảnh đau thương, Khủng khiếp trên cây cọc gỗ mun, Vua hỏi: "Quỷ kia, sao lại nói: Ngươi cần phải sống, sống thì hơn?"
7. Người này trên cọc chính thân nhân,
Tôi nhớ kiếp xưa ở cõi trần, Nên đã xót thương khi thấy nó Phải vào địa ngục bởi tà tâm. 8. Lic-cha-vi chúa thượng, từ đây Kẻ đã tạo ra ác nghiệp này Vào ngục tái sanh đầy khủng khiếp, Nóng bừng, gay gắt, hãi kinh thay. 9. Ngay cái cọc kia đủ mọi phần, Tốt hơn địa ngục biết bao lần, Ước mong nó chẳng sa vào ngục Gay gắt, kinh hoàng, thật khổ thân. 10. Nếu kẻ ấy nghe tôi nói vầy, Nó đầy sầu khổ, tắt hơi ngay, Cho nên trước nó tôi không nói, E chỉ vì tôi nó bỏ thây.
11. Vụ án người này ta biết qua,
Song ta muốn hỏi chuyện thêm mà; Nếu ngươi cho phép, ta xin hỏi, Song chớ giận hờn với chúng ta.
12. Việc ấy tôi xin hứa thật lời,
Chuyện này không kể với người đời Không có tín tâm vào Ðạo pháp, Dù tôi không muốn, hãy tin tôi; Hỏi ngay những việc gì ngài muốn, Tôi sẽ đáp tùy sức đó thôi.
13. Những gì ta thấy tận mắt ta,
Ước mong ta đủ tín tâm mà, Nếu không tin dẫu khi ta thấy, Ấy việc riêng ta, hỡi Dạ-xoa!
14. Tôi đã được ngài hứa thủy chung,
Khi ngài nghe pháp hãy thành tâm, Ði tìm tri kiến cao hơn nữa, Với trí chẳng ô nhiễm, sáng trong. Những pháp ngài chưa nghe hoặc đã, Tôi đều muốn nói hết cho thông.
15. Trên ngựa trang hoàng, ngươi đến đây
Tìm người bị đóng cọc phanh thây, Ðây là phong cách ngươi đi lại, Kỳ diệu và cao quý hiển bày. Do bởi nghiệp nào xưa đã tạo Mà nay được phước báo như vầy?
16. Chính giữa kinh thành Tỳ-xá-ly,
Xuyên qua đầm ở khoảng đường đi, Có nơi nọ cực kỳ nguy hiểm, Với dạ tín thành, một bữa kia, Tôi lấy gỗ chiên-đàn trắng bạch Bắc qua chỗ ấy có nề chi. 17. Sau đó chúng tôi đặt bước chân, Chúng tôi và những kẻ qua đường, Ðây là phương tiện rất kỳ diệu, Xứng đáng được chiêm ngưỡng giữa trần, Do chính nghiệp ngày xưa đã tạo, Giờ đây đem phước báo cho thân.
18. Hình dáng ngươi soi sáng mọi phương,
Khắp nơi đều phảng phất mùi hương. Nhà ngươi có cả thần thông lực Của một Dạ-xoa lực dị thường. Nhưng việc gì xưa đem kết quả Nhà ngươi nay phải chịu trần truồng?
19. Luôn giữ tín tâm thoát hận sân,
Nói lời từ tốn với tha nhân Việc xưa kia đã đem thành quả Hình dáng thần tiên mãi sáng bừng. 20. Khi tôi lưu ý đến thanh danh Của những người an trú Pháp hành, Tôi trịnh trọng trình bày việc ấy, Việc xưa đem kết quả cho mình: Mùi hương tiên giới trên thân thể Liên tục thoảng đưa thật dịu lành. 21. Khi các bạn tôi tắm bến sông, Tôi đem quần áo giấu quanh vùng, Tôi không ác ý, thích đùa giỡn, Nay chịu trần truồng thật khổ thân.
22. Nếu ai làm ác để đùa nhau,
Người bảo đây là quả kiếp sau; Song nếu ai làm không bỡn cợt, Thì người bảo kết quả nào đâu?
23. Bất cứ ai làm ác cố tâm
Ngôn từ, hành động quá buông lung, Phải vào địa ngục sâu tăm tối, Chắc chắn khi thân hoại mạng chung. 24. Kẻ nào mong thế giới quang vinh, Tìm thích thú trong các thiện hành, Bố thí, bản thân luôn chế ngự, Mạng chung vào thế giới thanh minh.
25. Tại sao ta phải tin điều này
Là quả thiện hành, ác nghiệp đây? Việc đã thấy ta cần tín ngưỡng? Người nào thuyết phục được ta vầy?
26. Khi ngài đã mắt thấy tai nghe,
Ngài hãy tin vào nghiệp quả kia, Nếu thiện ác đều không hiện hữu, Sao người hạnh phúc, kẻ ê chề? 27. Nếu chúng sanh không tạo thiện hành, Và gây ác nghiệp giữa nhân sanh, Thì nhân quần, dẫu cao hay thấp, Chẳng có tai ương, hoặc phước lành. 28. Nhưng bởi chúng sanh tạo thiện hành, Và gây ác nghiệp giữa nhân sanh, Nên nhân quần, dẫu cao hay thấp, Ðều gặp tai ương hoặc phước lành. 29. Có hai loại nghiệp báo trên đời, Ta phải hiểu ngay: Một hạng người Ðược hạnh phúc, và người chịu khổ. Chư Thiên hưởng lạc thú trên trời, Song người ngu bị nhiều hành hạ Khi thấy quả hai mặt chín muồi.
30. Không ai làm việc thiện vì tôi,
Hồi hướng về tôi, chẳng có người, Dâng cúng áo, giường, đồ ẩm thực, Nên tôi trần trụi, khổ trên đời!
31. Quả thật giờ đây có cách nào
Nhà ngươi được áo mặc hay sao? Nói cho ta biết về nguồn gốc, Ta sẽ nghe lời tín nhiệm mau.
32. Có vị Tỷ-kheo ở tại đây
Kap-pi-ta ấy chính danh này, Ngài chuyên Thiền định, và cao đạo, Giải thoát, điều thân, ứng cúng thay. Sống chế ngự mình bằng giới luật, An nhiên, đạt trí tối cao vầy. 33. Ngài vốn nói năng thật dịu hiền, Ôn tồn, nhỏ nhẹ, giọng êm đềm, Ðón chào niềm nở đầy chân thật, An tịnh trú trong giới luật nghiêm, Xứng đáng cúng dường nhiều lễ vật Từ loài người đến cả chư Thiên. 34. Thanh thản đoạn trừ lưới ác tâm, Chánh chân, vô ngã, lại ly tham, Ngài không có ước mong gì nữa, Chẳng có sanh y ở thế gian, Nên ngài giải thoát, tâm an tịnh, Tam minh chứng đắc thật vinh quang. 35. Mặc dù quần chúng thấy hình ngài, Ngài chẳng tiếng tăm, quen biết ai; Dân chúng Bạt-kỳ thường vẫn gọi Ngài là bậc trí tuệ cao vời. Thiên thần biết rõ ngài ly dục, Người có tín tâm sống ở đời. 36. Nếu chúa thượng dâng lễ cúng ngài Và đem công đức hướng về tôi, Một, hai bộ áo do ngài nhận Cũng đủ cho tôi có mặc rồi.
37. Bậc ẩn sĩ kia đang ở đâu?
Chúng ta yết kiến ở phương nào? Hôm nay ngài đánh tan nghi hoặc, Tà kiến giăng đầy tự bấy lâu.
38. Ở Kap-pi-na, ngài tọa thiền,
Ðược bao quanh bởi các thần tiên, Ngài đang thuyết pháp, ly sân hận, Chân chánh như danh tiếng đã truyền.
39. Ta đi làm việc ấy giờ đây,
Ta sẽ dâng y ẩn sĩ này Khi bộ y kia ngài đã nhận, Thì ngươi sẽ có áo quần ngay.
40. Với người xuất thế, bản thân tôi
Không yết kiến khi chẳng đúng thời. Chúa thượng, giờ đây không thích hợp. Ðúng thời, hãy viếng chỗ ngài ngồi.
41. Khi quỷ thần vừa nói vậy xong,
Nhà vua được cả đám tùy tùng Ðưa về lại chốn kinh thành ấy, Tư thất của vua ở hậu cung. 42. Từ đó, thực hành giới tại gia, Nhà vua tắm gội, chọn từ nhà Xiêm y tám bộ và đi cúng, Ðược đám tùy tùng hộ tống ra. 43. Khi nhà vua đến tận nơi này, Thấy ẩn sĩ tâm thanh tịnh đầy Ðã trở về sau thời khất thực, An nhiên, tĩnh tọa dưới gốc cây. 44. Ðúng lúc vua đi yết kiến ngài, Vấn an sức khoẻ, sống an vui; "Lic-cha-vi ấy là thân tộc, Tỳ-xá-ly thành, đất nước tôi, Tôi chính Am-ba-sa, tộc trưởng, Mong ngài hoan hỷ, kính thăm ngài. 45. Tôn giả, xin ngài hãy nhận ngay Tám y tốt đẹp cúng dâng này, Ðể tôi có thể đầy an lạc, Vì mục đích này tôi đến đây.
46. Sa-môn ẩn sĩ, dẫu từ xa,
Ðều phải tránh cung điện của vua, Nơi đó, bao nhiêu bình bát vỡ, Thầy tu bị xé áo cà-sa! 47. Nhiều người khác đấm đá kinh sao, Như búa, Tỷ-kheo phải ngã nhào, ẩn sĩ xuất gia mang tổn hại, Chính tay ngài đã biết là bao! 48-49. Dầu mè, đệm cỏ chẳng hề ban, Chẳng chỉ dùm ai lạc bước đàng, Từ một người mù, ngài lấy gậy Ngài vừa phóng dật, lại xan tham; Bây giờ vì lý do nào vậy, Bằng cách nào ngài muốn phát ban?
50. Tôn giả, tôi công nhận thật ngôn,
Tôi làm thương tổn các Sa-môn, Tôi mong đùa giỡn, không tà ý, Việc phạm lỗi xưa thật bạo tàn. 51. Kẻ kia làm ác để bông lơn, Hạnh phúc nó không được vẹn toàn, Nó nhận khổ đau, dầu trẻ tuổi, Số phần nó phải chịu trần truồng, Còn gì khốn đốn hơn cho nó Chính việc này đây có phải không? 52. Tôi thấy nó mang nặng lỗi lầm, Nên tôi dâng lễ vật, Tôn nhân, Xin ngài nhận tám y tôi cúng Hồi hướng về cho vị quỷ thần.
53. Bố thí, dĩ nhiên được nhận mà,
Ước công vô lượng với nhà vua, Nay tôi nhận tám y ngài tặng, Mong lễ vật hồi hướng Dạ-xoa. 54. Rồi vua nhấp nước tự bàn tay Ðể tẩy trần và dâng cúng ngay Tám bộ y lên ngài Trưởng lão: "Ước mong y được nhận như vầy! Và hãy nhìn xem thần đại lực Mặc nhiều quần áo thỏa lòng thay! 55. Tức thì vua thấy chính thần nhân Tẩm ướt dầu tinh chất gỗ trầm, Hình dáng cao sang, dòng quý tộc, Cỡi trên lưng tuấn mã oai hùng, Ðiểm trang y phục huy hoàng quá, Ðược hộ tống và đạt lực thần. 56. Với niềm vui sướng, dạ hân hoan, Khuôn mặt vui tươi, hạnh phúc tràn, Vì thấy nghiệp mình đem quả lớn, Vua vừa nhìn tận mắt hoàn toàn. 57. Vua bước lên và nói với thần: "Từ nay ta cúng các Sa-môn, Ta không có vật gì không cúng, Ðại quỷ, ngài là bậc cứu nhân".
58. Chúa thượng cho tôi hưởng phước ân
Cúng dường đâu có phải hoài công, Phần tôi sẽ tạo tình bằng hữu Giữa một phi nhân với thế nhân.
59. Ngài là quyến thuộc lẫn thân bằng,
Chánh đạo, nơi nương tựa, hộ thần! Ta khẩn cầu ngài và đảnh lễ, Ta mong được tái ngộ thần nhân.
60. Ví thử ngài làm mất tín tâm,
Thích nhiều tà kiến, hóa xan tham, Và trong trạng thái tà tâm ấy Ngài được gặp tôi để vấn an, Tôi sẽ chẳng cùng ngài nói chuyện, Dẫu tôi thấy mặt, hỡi quân vương! 61. Còn nếu ngài tôn trọng Pháp chân, Hân hoan bố thí, tự điều thân, Là nguồn cung cấp cho tu sĩ, Nếu có duyên may gặp quỷ nhân, Và nếu tôi đây nhìn thấy mặt, Thì tôi sẽ đáp lễ ân cần. 62. Mau thả người ra khỏi cọc này, Vì ta thân thiết chính nhờ đây, Tôi đang nghĩ đến người đau khổ, Nay đã kết giao tại chốn này. 63. Và nếu người này được thoát thân, Sẽ làm thiện nghiệp rất tinh cần, Ngày sau thoát ngục sâu tăm tối, Thiện nghiệp đều mang lại phước phần. 64. Chúa công tham kiến Kap-pi-ta, Ðúng lúc cúng dường bậc xuất gia, Ðến trước mặt ngài, ngồi thỉnh ý, Và ngài sẽ nói vấn đề ra. 65. Gặp Tỷ-kheo kia, thỉnh ý ngài, Tạo nhiều công đức, trí cao vời, Tùy theo tri kiến, ngài phân giải Các pháp chưa nghe giữa mọi người, Ngài sẽ thuyết về tất cả pháp Ðưa đường đến cảnh giới vui tươi. 66. Khi vua đã nói chuyện tư riêng Cùng vị phi nhân, kết bạn hiền, Vua đến Lic-cha-vi bộ tộc, Nói cùng đại hội họp theo phiên: 67. "Các người xin hãy lắng nghe lời, Ta sẽ tìm đường lối tốt thôi. Kẻ ác bị treo vào cọc ấy Bị trừng phạt nặng, khổ tơi bời. 68. Hai mươi đêm ấy khoảng thời gian Nó đã bị ràng buộc tấm thân, Nó chẳng biết đâu là sống chết, Ta xin đại hội thả tù nhân!".
69. "Mau thả luôn hai kẻ ấy ngay,
Nào ai từ chối việc như vầy? Xin làm những việc ngài thông hiểu, Ðại hội tuân theo ý chỉ này". 70. Nơi kia, vua vội vã ra đi, Phóng thích người trên cọc tức thì, Rồi bảo: "Bạn này, đừng sợ hãi", Và giao cho các vị lương y. 71. Rồi vua yết kiến Kap-pi-ta, Ðúng lúc cúng dường bậc xuất gia, Ðến trước mặt ngài, ngồi thỉnh ý Và tìm các lý lẽ nêu ra.
72. Kẻ ác bị treo ở cọc kia
Chịu nhiều trừng phạt, khổ ê chề, Hai mươi đêm tấm thân ràng buộc, Nó chẳng sống còn hoặc chết đi. 73. Bây giờ tôi đã đến buông tha Cứu nó theo lời quỷ Dạ-xoa, Xin hỏi, phải chăng còn có cách, Làm cho nó thoát ngục Diêm-la? 74. Tôn giả, bảo tôi biết cách gì, Chúng tôi tin tưởng lắng tai nghe, Phải chăng không thể tiêu trừ nghiệp, Cho dẫu ta không hiểu chuyện kia?
75. Nếu ngày đêm nỗ lực tinh cần
Nó thực hiện nhiều thiện nghiệp nhân, Nó sẽ thoát ra từ ngục tối, Thiện nghiệp phải đem lại phước phần.
76. Nay tôi hiểu rõ chuyện này rồi,
Tôn giả, giờ đây thương xót tôi, Bậc trí dạy cho tôi Giáo pháp Ðể tôi khỏi đọa ngục Diêm đài.
77. Ngay tự hôm nay với tín tâm
Ngài qui y Phật, Pháp,Tăng nhân; Ðồng thời, thân thực hành năm giới Trọn vẹn và không có lỗi lầm. 78-79. Từ nay ngài bỏ giết muôn loài, Không lấy vật chi chẳng tặng ngài, Không uống rượu nồng, không nói dối, Hãy bằng lòng với vợ ngài thôi. Trang nghiêm lãnh tám công thù thắng Ðưa đến nhiều thành quả đẹp tươi. 80. Với tâm thanh thản, hãy đem dâng Các bậc chánh chân những vật cần, Y phục, đồ ăn bình khất thực, Nơi an trú với chỗ ngồi nằm, Thức ăn đủ loại mềm và cứng, Thức uống và nơi chốn nghỉ chân. 81. Thiết đãi Tỷ-kheo thức uống ăn, Những người có giới hạnh siêu quần, Ða văn và thoát ly tham dục, Công đức vẫn luôn phát triển dần. 82. Thực hành Chánh pháp thật tinh chuyên Với nhiệt tình luôn ngày lẫn đêm, Ngài tự cứu mình từ địa ngục, Thiện hành mang phước báo nhân thiên.
83. Ngay tự hôm nay với tín tâm
Tôi quy y Phật, Pháp, Tăng nhân; Ðồng thời, thân thực hành năm giới Trọn vẹn và không có lỗi lầm. 84-85. Từ nay tôi bỏ giết muôn loài, Không lấy vật gì chẳng tặng tôi, Không uống rượu nồng, không nói dối, Biết bằng lòng với vợ mình thôi. Trang nghiêm lãnh tám công thù thắng Ðưa đến nhiều thành quả đẹp tươi. 86. Với các vị cao đạo, Thánh Tăng, Thoát ly tham dục, lại đa văn, Dâng y, thực phẩm trong bình bát, Sàng tọa và nơi chốn nghỉ chân, Ðủ loại thức ăn mềm hoặc cứng, Cùng nhiều thức uống, chỗ ngồi nằm. Tìm trong Phật pháp niềm an lạc, Tôi quyết không dao động bản thân. 87. Am-ba-sa, vị Líc-cha-vi, Kẻ tại gia thành Tỳ-xá-ly, Ðã trở nên người như vậy đó, Ðầy tâm thành tín, tính nhu mì, Nhiệt tình thực hiện nhiều công hạnh, Với chúng Tỷ-kheo, quyết hộ trì. 88. Khi người trên cọc đã bình an, Tự nguyện, người từ giã thế gian, Ðến với Kap-pi-ta ẩn sĩ, Rồi hai người đắc quả Sa-môn. 89. Ðây chính cách hầu cận Thánh Tăng, Quả nhiều cho các thiện hiền nhân, Người trên cọc đạt phần ưu thắng, Trong lúc Am-ba quả nhỏ hơn.
1. Tương truyền lãnh chúa Pin-ga-la
Ngự trị thần dân Su-rat-tha, Khi đã đi chầu triều Khổng tước, Trên đường vua trở lại quê nhà. 2. Trong cơn nóng bức giữa ban ngày, Vua đến một nơi có vũng lầy, Nhìn thấy một con đường khả ái, Là nơi trú ngụ quỷ ma đầy. 3. Vua ấy bảo ngay vị quản xa: "Con đường này khả ái cho ta, An toàn, yên tĩnh, đầy may mắn, Theo lối này đi, hỡi quản xa". 4. Vua xứ Su-ra tự chốn đây Tiến lên cùng với đội quân ngài, Bốn đoàn hộ tống đều đi trước, Hướng dẫn thần dân xứ sở này. 5. Với dáng lo âu, một lão gia Nói như vầy với chúa Su-ra: "Chúng ta đi lạc đường rồi đó, Thật đáng hãi kinh, rợn tóc da. 6. Mặt tiền ta thấy một con đường, Song phía sau không thấy hướng phương, Tất cả chúng ta đang lạc bước Ðến gần quân của Diệm-ma vương. 7. Có một mùi ma quỷ bốc ra, Tiếng ồn khủng khiếp được nghe qua". Su-ra lãnh chúa liền kinh hoảng Vội nói như vầy với quản xa: 8. "Nay chúng ta đang lạc bước đường, Thật là lạnh gáy, đáng kinh hoàng, Mặt tiền thấy một con đường nọ, Song phía sau không thấy có hướng phương. 9. Nay chúng ta đang lạc bước đường Ðến gần quân của Diệm-ma vương, Một mùi ma quỷ đang xông khắp, Khủng khiếp tai nghe một tiếng ồn!" 10. Nhà vua đang ngự ở lưng voi Ngơ ngác nhìn quanh bốn hướng trời, Chợt thấy một cây đa rợp bóng, Sum suê cành lá thật xanh tươi. 11. Cây có màu xanh xám tựa mây, Ðỉnh cây có sắc của sương dày, Nhà vua hỏi vị quan điều ngự: "Ta thấy vật chi lớn thế này, Như đám mây xanh màu xám ngắt, Ðỉnh cây có sắc tựa sương bay?".
12. Chúa công, đó chính một cây đa,
Cành lá sum suê tỏa bóng ra, Cây có màu mây xanh xám ngắt, Ðỉnh cây có sắc tựa sương sa. 13. Su-ra chúa tể lại lên đường, Về hướng cây cao lớn dị thường, Sắc tựa đám mây xanh xám ngắt, Ðỉnh cây lại có một màu sương. 14. Nhà vua bước xuống tự lưng voi, Ði đến gần cây nọ một hồi, Cùng với quần thần và cận vệ, Ở ngay gốc rễ, chúa công ngồi. 15. Vua thấy bánh và hủ nước trong, Một ngươi có dáng điệu Thiên thần, Ðiểm tô đủ loại đồ trang sức, Ði đến ngỏ lời với chúa công: 16. "Chúa công! Hân hạnh được chào mừng, Chư vị đến đây thế cũng gần, Chúa thượng, xin mời ngài uống nước Và dùng bánh, hỡi vị anh hùng!" 17-18. Nhà vua cùng với đám quần thần, Cận vệ bên mình uống nước trong, Ăn bánh rồi vua cất tiếng hỏi: "Xin cho biết, có phải Thiên nhân, Thác-bà, hạy chính là Thiên chủ Pu-rín-dà-da ấy phải chăng? Không biết ngài nên ta muốn hỏi, Làm sao ta biết được tôn ông?
19. Tôi đây không phải một Thiên nhân,
Chẳng phải Sak-ka, chẳng Nhạc thần, Tôi chính quỷ nhân, tâu chúa thượng, Từ Su-ra đến ở ma cung.
20. Ngày trước ngài công đức thế nào,
Ở Su-ra xử thế ra sao, Ngài theo Phạm hạnh nào từ trước, Nay hưởng cảnh vinh hiển biết bao?
21. Xin hãy lắng nghe, hỡi chúa công,
Là người khai quốc, vị anh hùng, Quốc sư tế lễ nghe tôi nói, Cùng các quân nhân, các đại thần. 22. Chúa công, tôi đến tự Su-ra, Thuở trước tính tình thật xấu xa, Tà kiến mang đầy cùng ác ý, Xan tham, hay mạ ly người ta. 23. Tôi ngăn lắm kẻ thật nhân từ Hành thiện sự nhiều để lợi tha, Tôi cản bước chân bao kẻ khác Sẵn lòng lấy của cải đem cho. 24. Bảo: "Bố thí không tạo phước phần Ðâu là kết quả tự điều thân? Không hề có đạo sư nào cả, Ai sẽ phạt người không hiến dâng? 25. Giữa các hữu tình đồng đẳng nhau, Tại sao kính trọng vị niên cao, Có đâu nỗ lực và tinh tấn, Nói đến tinh cần bởi cớ sao? 26. Bố thí không mang quả phước phần, Cũng không trừ diệt một cừu nhân; Mỗi người được những gì cần có, Và nhận những gì phải đến thân. 27. Chẳng có mẹ cha, huynh đệ đâu, Không đời này cũng chẳng đời sau, Cũng không bố thí, không dâng cúng, Không có gì bền vững được lâu. 28. Hễ ai đánh đập một người nào, Hoặc có đem người khác chặt đầu, Cũng chẳng làm gì gây tổn hại Giữa muôn loài vật sống bên nhau. 29. Mỗi mạng sống đều bất khả phân, Dầu hình bát giác hoặc cầu lăn, Nó cao đến cả năm trăm dặm, Ai có thể tiêu diệt nó chăng? 30. Cũng giống cuộn dây được ném ra Từ người thả nó, chạy lăn xa, Như vầy là mạng người đang sống Thoát được những ai thả nó mà. 31. Như người từ giã một ngôi làng Vào một làng kia, phải thấy đường, Cũng vậy, một con người tận số Bước vào thân xác mới tha phương. 32. Như người từ giã một ngôi nhà, Và bước vào nơi trú ngụ kia, Cũng vậy, là con người tận số Ði vào một cảnh giới phương xa. 33. Sau khi qua hết nẻo luân hồi Tám triệu bốn trăm ngàn kiếp trôi, Tất cả kẻ ngu cùng bậc trí Thảy đều chấm dứt khổ đau rồi. Lạc, ưu đo được bằng thùng, giỏ Người chiến thắng thông hiểu sự đời, Kẻ khác đều là phường xuẩn ngốc", Tôi mang tà kiến cả đời tôi. 34. Xưa kia tôi lầm lạc, lắm mê si, Tà kiến, tôi không đạo hạnh gì, Tôi lại xan tham, hay phỉ báng, Không đầy sáu tháng, sẽ ra đi. 35-36. Ðọa vào ngục hãi kinh sao, Có bốn góc, và bốn cửa vào, Ngục được chia phần theo kích thước, Xung quanh bao bọc với tường rào, Làm bằng sắt nóng và trên mái Cũng có sắt che tận đỉnh cao. 37. Nền sắt ánh lên lửa nóng bừng, Sáng ngời mọi phía trăm do-tuần, Trăm ngàn năm đã trôi qua mất, Lập tức một âm thanh chuyển rung. Những kẻ tà tâm và ác tính Ðã từng phỉ báng các chân nhân Bị hành địa ngục vô lượng kiếp, Chốn ấy sẽ đau khổ chẳng ngừng. 38. Cho nên tôi thống thiết than van Kết quả ác hành kia phải mang, Xin lắng nghe tôi, tâu chúa thượng, Anh hùng khai quốc, chúc an khang! Nguyên tôi có một cô con gái, Tên gọi Ut-ta-ra thật ngoan. 39. Nàng hành thiện sự thấy an vui Giữ Bát quan trai giới đúng thời, Nàng sống điều thân, ham bố thí, Nhân từ, khôn khéo lúc trao lời. 40. Nhất mực tuân theo giáo pháp nhà, Nàng làm dâu quý tộc danh gia, Nàng là đệ tử Ngài Viên Giác, Bậc trí vinh quang, tộc Thích-ca. 41. Một Tỷ-kheo cao đạo khác thường, Ra đi khất thực, bước vào làng, Mắt người cúi xuống, thân điều phục, Chánh niệm và phòng hộ các căn Trong lúc đi từng nhà khất thực, Dần dần người đến tận nhà nàng. 42. Ut-ta-ra lúc ấy nhìn người, Chúc chúa công luôn hưởng phước trời! Nàng đã dâng người bình nước uống Cùng nhiều bánh bột, lại thưa lời: 43. "Tôn giả, cha con đã mất rồi, Mong sao lễ mọn giúp cho người". Không lâu sự việc nàng vừa thấy, Kết quả tức thì đến với tôi. 44. Tôi hưởng thức ăn, lạc thú tràn, Khác nào Thiên đế Tỳ-sa-môn, Hỡi anh hùng mở mang bờ cõi, Xin lắng nghe đây, tấu chúa công. 45. Phật-đà được gọi đấng siêu nhân Giữa các Thiên, nhân ở cõi trần, Hãy đến quy y vào Ðức Phật, Cùng đàn thê tử, hỡi anh hùng. 46. Nhiều người đạt bất tử, vô sanh, Do chính Ðạo kia có tám ngành, Cùng vợ con đi tìm Giáo pháp Ðể quy y, hỡi bậc hùng anh! 47. Cùng bước đi trên bốn Ðạo này, Trú trong bốn Quả quý cao thay, Chư Tăng trực hạnh và tu luyện Giới đức trang nghiêm, trí tuệ đầy. 48. Hỡi bậc anh hùng, xin hãy đi Cùng đàn thê tử thọ Tam quy, Mau mau bỏ giết loài sanh vật, Không lấy trộm cho dẫu vật gì, Không uống rượu nồng, không nói dối, Hãy bằng lòng với vị vương phi.
49. Ngài muốn ta an lạc, Dạ-xoa,
Ngài mong lợi ích với hoàng gia, Phần ta thực hiện lời ngài dạy, Ngài chính là sư phụ của ta. 50-51. Ta đến quy y đấng Phật-đà, Tối cao Giáo pháp, với Tăng-già, Ta mau bỏ hết điều sanh sát, Không lấy vật gì chẳng tặng ta, Không uống rượu nồng, không nói dối, Biết bằng lòng với vợ trong nhà. 52. Ta bỏ khoe khoang với xảo ngôn, Nhanh như thể đổ xuống dòng sông, Ta nôn ra hết bao tà kiến, Thích thú tuân lời dạy Thế Tôn. 53. Nói vầy xong, chúa tể Su-ra Từ bỏ ngay quan điểm ác tà, Ðảnh lễ Thế Tôn, rồi chúa thượng Hướng về đông ngự giá vương xa.
1. Một rừng mía lớn hiện bên mình,
Bát ngát, mùa phong phú tốt lành, Song nó không cho tôi chút ít, Kính thưa Tôn giả đại uy danh, Nghiệp gì gây quả này như vậy, Tôn giả cho tôi biết sự tình? 2. Tôi đang thống khổ, bị hành thân, Tôi cố gắng tìm chút để ăn, Tôi phấn đấu hoài bên khóm mía, Sắp tàn hơi thở, chết kề gần, Tôi than khóc tấm thân đày đọa, Do nghiệp gì đem quả ấy chăng? 3. Thất bại, tôi nhào xuống đất ngay, Lăn tròn trong lửa đốt thiêu này Như con cá nọ, tôi than khóc, Nước mắt nhỏ ra cả mặt mày, Tôn giả, xin ngài cho biết rõ, Nghiệp gì đem kết quả như vầy? 4. Tôi đói khát và kiệt sức tàn, Kinh hoàng, tôi chẳng biết bi hoan, Chúc ngài hưởng phước, tôi xin hỏi, Làm thế nào tôi được mía ăn?
5. Khi làm người ở một thời xưa,
Ngươi đã tạo nên một nghiệp tà, Ta nói cho ngươi nghe việc ấy, Khi nghe, ngươi biết chuyện vừa qua. 6. Ngươi bước trên đường, lấy mía ăn, Một Tỳ-kheo đến tự sau lưng, Bảo ngươi rằng muốn xin đôi chút, Ngươi chẳng đáp lời, chẳng hé răng. 7. Cho dẫu ngươi không muốn nói năng, Người kia vẫn nói, giọng xin van: "Cho tôi khúc mía, thưa ông chủ", Sau đó ngươi cho một ít phần Từ phía sau lưng và kết quả Nghiệp kia ngươi đã lãnh vào thân. 8. Nhìn đây! Cầm mía ở sau mình, Hãy lấy mía ăn thật thỏa tình, Do chính việc này, ngươi sẽ được Hân hoan, thích thú, hưởng ân lành! 9. Nó đi cầm mía tự sau mình, Khi đã cầm, ăn thật thỏa tình, Do chính cách này, nên nó được Hân hoan, thích thú, hưởng ân lành.
1. Có một kinh thành tên Xá-vệ,
Ở trên sườn núi Tuyết, cao sơn, Tôi nghe vầy: Có đôi vương tử Là các con trai bậc đế vương. 2. Phóng dật buông lung các dục tham, Tìm nguồn lạc thú ở trần gian, Chúng không suy xét tương lai chúng, Tận hưởng thú vui hiện tại tràn. 3. Khi chúng bỏ thân xác thế nhân Ði sang thế giới khác người trần, Dù không ai thấy, thường kêu khóc Về ác nghiệp xưa chúng đã làm 4. "Quả thật nhiều người đáng cúng dàng Với nhiều lễ vật", chúng than van, "Xưa ta chẳng tạo nên công đức Ðem đến cho mình chỗ trú an". 5. "Ác nghiệp nào đời trước tạo ra, Do vầy từ giã chốn hoàng gia, Tái sanh vào cõi loài ma đói, Chịu đói khát giày xéo chúng ta? 6. Những kẻ làm vua cõi thế nhân Sẽ không làm chúa tể âm cung, Sang, hèn, hai loại đều quanh quẩn Bị đói khát hành hạ khổ thân. 7. Biết rằng đau khổ có nguồn căn Vua chúa buông lung phóng dật tâm, Nam tử bỏ vương quyền ngã mạ, Do vầy, thành một vị Thiên nhân, Sau khi xả báo thân phàm tục, Bậc trí tái sanh cõi sáng bừng".
1. Quả do các nghiệp tạo ngày xưa
Có thể làm dao động trí ta Liên hệ sắc, thanh, hương, vị, xúc, Những gì đem lạc thú say sưa. 2. Ông hoàng đã hưởng thú ca xang, Ðàn địch, ái ân thật ngập tràn, Sau lúc nhàn du quanh thượng uyển, Chàng đi vào cổ lũy Ða Sơn. 3. Chốn kia chàng thấy Su-net-ta, Thanh tịnh, điều thân, một Phật gia, Thiểu dục, khiêm cung và biết đủ Với bình khất thực kiếm từng nhà. 4. Hoàng nam bước xuống tự lưng voi, Và đến Hiền nhân ấy, thốt lời: "Tôn giả, xin chào!" rồi lập tức Chàng cầm bình bát ném lên trời. 5. Ném vỡ chiếc bình xuống đất kia, Vừa cười vừa nói lúc đi xa: "Ta là vương tử Ki-ta chúa, Ðạo sĩ có làm ích lợi ta?" 6. Quả báo cho hành động bất nhân Thật là khắc nghiệt, khổ muôn phần, Tương truyền vương tử về sau đó Phải đọa vào trong ngục tối tăm. 7. Hơn năm mươi vạn năm đày thân Trong ngục tối đau khổ tận cùng Vì tội lỗi mà chàng đã tạo, Bị nhiều hình phạt đến xoay vần. 8. Chàng cứ nằm, đưa mặt xuống sàn Xoay quanh phải, trái, biết bao lần, Ðôi chân chổng ngược lên cao mãi; Rồi đứng thẳng, người ngốc khổ thân. 9-10. Qua mấy ngàn năm, mấy vạn năm, Bị hành địa ngục khổ vô ngần, Chính vì tội lỗi chàng gây tạo, Quả khắc nghiệt kia phải lãnh phần Bởi những người đưa tay phá hại Bậc Hiến trí giải thoát mê lầm. 11. Sau khi đã trải biết bao năm Trong ngục khổ đau thật hãi hùng, Chàng phải mạng chung vì đói khát, Trở thành một ngạ quỷ mình trần. 12. Như vầy, khi thấy cảnh đau thương Do vị vua buông thả kỷ cương, Ta chẳng làm vua buông thả nữa, Mà nên hướng đến tính khiêm nhường. 13. Ngay cả trong đời sống hiện thời, Người tôn trọng Phật đáng khen hoài, Có đầy trí tuệ, khi thân hoại, Ðược tái sanh vào cõi sáng tươi.
1. Ngươi chính là ai, khốn khổ thân,
Ðứng kia, vừa đến tự hầm phân, Nói cho ta biết hành vi ác Ngươi đã làm trong quá khứ chăng?
2. Tôn giả, tôi là ngạ quỷ nhân,
Thần dân khốn khổ Dạ-ma quân, Vì tôi đã phạm hành vi ác, Từ cõi đời, tôi đến cõi âm.
3. Thời xưa đã phạm ác hành gì
Do khẩu, ý, thân đã thực thi? Vì nghiệp quả nào ngươi đã tạo Giờ ngươi phải chịu cảnh sầu bi?
4. Nhà tôi thường trú một Tỳ-kheo,
Tật đố và ganh tỵ đủ điều, Ở tại nhà tôi, ham dục lạc, Vị này phỉ báng, xan tham nhiều. 5. Tôi đã nghe lời của ác nhân, Và tôi khiển trách các Sa-môn; Bởi vì tôi phạm hành vi ấy, Từ cõi đời, tôi đến cõi âm.
6. Bạn thiết của ngươi chính kẻ thù
Giả danh bạn đấy, hỡi người ngu, Ðến khi thân hoại, đi nơi khác, Số phận nào cho kẻ giả tu?
7. Nay tôi đang đứng ở trên đầu
Của phạm nhân này tự bấy lâu, Nó đã đọa vào miền ngạ quỷ, Chỉ mình tôi, nó phải theo hầu 8. Vật nào người khác trút cho vơi Liền trở thành đồ ăn của tôi, Và nó, đến phiên mình, kiếm sống Những gì tôi tống khứ ra ngoài!
1. Trần truồng và xấu xí hình dung,
Hốc hác, khắp thân thể nổi gân, Gầy guộc, các xương sườn lộ rõ, Vậy là ai đó, các tôn ông?
2. Tôn giả, chúng con chính quỷ nhân,
Thần dân khốn khổ Dạ-ma quân, Chúng con đã phạm hành vi ác, Từ cõi đời, đi đến cõi âm.
3. Ngày xưa đã phạm ác hành gì
Do khẩu, ý, thân đã thực thi? Vì nghiệp quả nào nên đã đọa Từ đây tới cảnh giới âm ty?
4. Cả bọn đi quanh bến tắm công,
Lang thang suốt cả nửa tuần trăng; Chúng con chẳng tạo nơi an trú Bằng cách đem tài vật cúng dâng. 5. Chúng con kinh hãi đến dòng sông, Sông nước trở thành bãi trống không; Ngày nắng chúng con vào bóng mát, Tàn cây lại hóa nóng bừng bừng. 6. Cơn gió như thiêu đốt, lửa hồng Thổi ào lên khắp cả toàn thân, Chúng con xứng đáng nhiều đau khổ Hơn thế này, Tôn giả biết chăng? 7. Ðói khát mong cầu thức uống ăn, Chúng con đi cả mấy do-tuần, Trở về không được gì đâu cả, Cơ khổ! Chúng con ít phước phần. 8. Ðói lã và bất tỉnh ngã lăn Chúng con gục xuống đất khô cằn, Tấm thân sóng sượt nằm co quắp, Ðầu ngã lộn nhào xuống dưới chân. 9. Do vậy chúng con phải ngã liền Xuống nền đất lạnh khổ triền miên; Chúng con đấm ngực và đầu tóc, Cơ khổ! Chúng con ít phước duyên. 10. Tôn giả, chúng con xứng lãnh phần Khổ đau này nữa thật nhiều lần. Chúng con chẳng tạo nơi an trú Cho chính mình bằng cách cúng dâng. 11. Quả thật, khi từ biệt cõi này, Tái sanh nhân thế kiếp sau đây, Chúng con nguyện hết lòng hào phóng, Tu tập giới, hành thiện sự ngay.
1. Nàng đã thấy bao địa ngục rồi,
Các miền súc vật, quỷ và người, A-tu-la với Thiên thần nữa, Nàng đã nhận ra nghiệp chín muồi, Ta sẽ đưa nàng về phố cũ Bình an, hành thiện sự trên đời.
2. Chàng muốn em an lạc, Dạ-xoa,
Chàng mong em lợi ích sâu xa, Em xin thực hiện lời chàng dạy, Chàng đối với em chính đạo sư, Em đã thấy bao miền địa ngục, Các miền súc vật, quỷ, người ta, A-tu-la với Thiên thần nữa, Em đã nhìn xem nghiệp báo mà. Em nguyện thi hành nhiều thiện sự Ngay khi vừa đến chốn quê nhà.
1. Hồ sen ngài có diệu kỳ thay,
Bến nước làm ta phải đắm say Bờ thật phẳng lì, nhiều nước mát, Trang hoàng hoa đủ loại như vầy, Một bầy ong điểm tô đây đó, Sao ngài được cảnh mỹ hồ này? 2. Ðây ngài lại có một vườn xoài Tuyệt mỹ và sinh quả mọi thời, Vườn được trang hoàng hoa nở rộ, Bầy ong điểm xuyết khắp nơi nơi, Làm sao ngài được lâu đài ấy Xin nói cho ta biết hỡi ngài?
3. Con gái ta làm lễ cúng dâng
Cháo hoa, xoài chín, nước trong ngần, Chính vì việc ấy nên ta được Hưởng bóng cây êm mát tuyệt trần.
4. Nhìn phước báo ngay ở cõi trần
Do dâng lễ vật, tự điều thân. Xưa ta tỳ nữ nhà danh giá, Nay được làm dâu, nữ chủ nhân.
5. Các bậc chánh chân thường nhiếp phục
Những điều bất lạc bằng hân hoan, Những điều thù oán bằng từ ái, Nhiếp phục khổ đau với lạc an.
Vật gì mà kẻ ấy đem cho,
Không chỉ trở thành như vật xưa, Vậy hãy cứ phân chia tặng vật, Nhờ đem cho, kẻ ấy đi qua Cả hai thế giới, và do đó Kẻ ấy đi lên. Hãy tiến tu!
1. Ta đã góp thu lắm bạc vàng
Công bằng cùng với chẳng công bằng Khi người khác hưởng bao tài vật, Phần chúng ta nay thật thảm thương.
1-2. Với người trong ngục bị hành thân
Suốt cả thời gian sáu vạn năm, Việc ấy khi nào thì chấm dứt? - Sẽ không chấm dứt. Chẳng sau cùng. Bao giờ chấm dứt? - Không nhìn thấy, Quả bạn và ta phạm lỗi lầm. 3. Chúng ta đang phải sống đau thương Vì chúng ta không biết cúng dường Những vật cần cho khi có sẵn, Ta không tạo chỗ trú an toàn. 4. Quả thật khi từ biệt chốn đây Ðược làm người ở cõi đời này, Ta nguyền hào phóng, chuyên trì giới, Ta quyết làm nhiều thiện sự ngay.
1. Tại sao ngươi cứ chạy xoay vần
Như chú nai đi lạc phát cuồng, Chắc chắn ngày xưa gây ác nghiệp Ngươi nghĩ thế nào việc ấy chăng?
2. Tôn giả, con là ngạ quỷ nhân,
Thần dân khốn khổ Dạ-ma quân, Vì con đã phạm hành vi ác, Con đến cõi ma đói ẩn thân. 3. Sáu mươi ngàn chiếc búa vừa tròn Bổ xuống đầu con, chẻ sọ con.
4. Ngày xưa đã phạm ác hành gì
Do khẩu, ý, thân đã thực thi, Vì nghiệp quả nào ngươi đã tạo, Từ đời này đến cõi âm ty? 5. Sáu mươi ngàn chiếc búa liên hồi Bổ xuống đầu ngươi, chẻ sọ ngươi!
6. Ngày xưa con thấy Su-net-ta,
Hoàn thiện các căn, một Phật gia, Vừa đến gốc cây ngồi tĩnh tọa, An nhiên thiền định, chẳng âu lo. 7. Con ném ngài bằng cục đá vôi Làm tan vỡ cả chiếc đầu ngài, Vì hành vi ấy ngày xưa phạm, Con phải chịu đau khổ thật dài. 8. Sáu mươi ngàn chiếc búa vừa tròn Bổ xuống đầu con, chẻ sọ con.
9. Vì Chánh pháp, này hỡi ác nhân,
Sáu mươi ngàn chiếc búa xoay vần Giờ đây đánh xuống đầu ngươi mãi, Chẻ nát đầu ngươi sáu vạn lần. HẾT TẬP II - TIỂU BỘ KINH |